Tên của nó là Wheelie…
LỜI GIỚI THIỆU
Các trường đại học lớn của Mỹ nhìn vào nhiều khía cạnh của một học sinh khi xét đơn xin vào đại học, trong đó có điểm trung bình, điểm chuẩn SAT hay ATC, thành tích tham gia hoạt động ngoại khóa, thư giới thiệu, đôi khi phỏng vấn, và đặc biệt là bài tiểu luận. Tiểu luận phải có văn từ đặc biệt, thể hiện tư tưởng cá nhân, triết lý sống… Tất cả nối với những gì mà học sinh đó có được, một cách gián tiếp. Để gây ấn tượng, tiểu luận phải có chiều sâu, ý tưởng mới lạ, nguyên thủy, có chiều hướng thiên về nhân tính và cộng đồng.
Amanda Nguyễn đã viết một bài văn như thế, kể lại cảnh đi trên sợi dây sinh tử của mình khi cô 16 tuổi. Bài văn này được chọn đăng trong tuyển tập 50 Successful Harvard Application Essays, the Third Edition. Đây là bản dịch giúp hiểu phần nào tư tưởng và sự lựa chọn của Amanda Nguyễn, khi cô cận kề cái chết. Có thể xem đây là bài học đối với nhiều người. Chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng đều có sự lựa chọn. Với Amanda, sự lựa chọn của cô là sẵn sàng đối đầu nghịch cảnh.
Dịch giả: Lương Tạ
Đọc thêm về Amanda Nguyễn: Một hiện tượng người Việt
***
Bài tiểu luận của Amanda Nguyễn được đăng trong 50 Successful Harvard Application Essays, the Third Edition (xếp thứ hai trong mục lục)
…
✍️ Tên của nó là Wheelie. Với những bánh xe bóng bẩy, đó là một tuyệt tác công nghệ cao gần một thước. Sự tồn tại và mục đích của nó đã tạo thành một nghịch lý độc đáo – một vật thể bình thường có thể giúp hành khách của nó đạt được những điều phi thường. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng bảy tháng bị bó buộc trong chiếc xe kỳ diệu như vậy lại có thể mở rộng và thay đổi cách nhìn của tôi về cuộc sống một cách mạnh mẽ. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ phải ngồi trên xe lăn.
Một buổi sáng thứ Hai của năm học Trung học đệ nhất cấp, tiếng chuông đồng hồ báo thức trung thành nhưng dai dẳng đã đánh thức tôi khỏi những giấc mơ và báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Nhưng thay vì căn phòng ấm áp, quen thuộc của mình, tôi thấy mình đang nhìn chằm chằm vào phía trong rõ nét của bệnh viện. Căn phòng được trang trí bằng những sợi dây đầy màu sắc, một số trong số đó kết nối tôi với nguồn gốc của truy vấn của tôi: một máy theo dõi tim liên tục kêu bíp khi báo lỗi.
Một y tá chạy đến để kiểm tra tiếng động, và khi phát hiện ra tôi đã tỉnh, cúi xuống nắm chặt hai tay tôi lại với nhau. Với khuôn mặt biểu cảm đâu đó giữa xin lỗi và dâng linh hồn tôi cho Chúa của cô y tá, tựa như là, tại sao trong ca trực của cô, cô phải là người báo tin cho tôi. Cô y tá thông báo rằng cuộc phẫu thuật tim cấp cứu của tôi đã thất bại. Bác sĩ tim mạch của tôi thẳng thắn hơn nhiều. “Cháu có nguy cơ đột tử cao,” giọng bà nói một cách thực tế. Cuộc phẫu thuật thất bại đã làm tổn thương cấu trúc trái tim của tôi, và tôi có thể chết bất cứ lúc nào cho đến khi các bác sĩ phẫu thuật có cơ hội sửa chữa những sai lầm của họ.
Đó là khi tôi gặp Wheelie.
Bằng cách tự nhủ mình có thể sống, tôi đã tìm ra cách để sống…
Tôi nhớ mình đã căm ghét chiếc xe lăn lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó – một biểu tượng hữu hình cho những hạn chế giam thân thể tôi vào. Theo thời gian, những rào cản ít hữu hình hơn nhưng không kém phần khủng khiếp dần xuất hiện. Tôi được yêu cầu dừng lại. Nghỉ học. Ngừng hoạt động. Ngừng chơi thể thao. Bởi vì, như bác sĩ tim mạch của tôi giải thích, “Cái chết đột ngột của cháu có nghĩa là cuộc sống dừng lại”. Không có nhiều người cho tôi hy vọng về việc duy trì lối sống trước đây của mình. Nhưng Wheelie nhắc nhở tôi rằng mặc dù thế giới không thể và sẽ không chờ đợi tôi trở nên tốt hơn, nhưng tôi có lựa chọn để tiến lên phía trước. Giống như một chiếc xe lăn phải chở hành khách của nó, bất kể trọng lượng, tôi đã học cách lăn bánh, bất kể chướng ngại vật.
✍️ Nếu chân tôi không thể di chuyển, Wheelie giúp tôi đi lại.
✍️ Nếu không có tiếng chuông báo bắt tôi đi học thì tôi cũng buộc mình phải dậy sớm.
✍️ Nếu người ta không dạy tôi môn Giải tích toán AP vì họ nghĩ không có cách nào tôi có thể thành công trong tình trạng này, tôi sẽ tự nghiên cứu tích phân.
✍️ Nếu người ta nói rằng không có cách nào để tôi có thể điều phối một hội nghị khu vực [cho tổ chức FBLA, nơi Amanda lãnh đạo] thì tôi thông báo rõ rằng tôi có thể và tôi sẽ làm.
Những nỗ lực của tôi không phải để chứng minh khả năng tự cung tự cấp của tôi. Tôi đã làm điều đó như một cách để vượt qua, một phương pháp đối phó với những gì được cho là đơn điệu chờ Thần chết gõ cửa. Cốt lõi hơn, bằng cách tự nhủ mình có thể sống, tôi đã tìm ra cách để sống.
Một vài ca phẫu thuật thành công sau đó, Wheelie đã lui về ở một góc ấm cúng trong nhà để xe của tôi. Khi tôi đi ngang nó để cùng bạn bè tham gia một ngày khác ở trường, tôi sẽ không bao giờ quên những bánh xe nhỏ vững chắc đã dạy tôi về sự bền bỉ và hy vọng. Sự bó buộc về thân thể của tôi, trong lúc suy nhược, đã dẫn đến sự thay đổi khôn lường trong quá trình trưởng thành. Wheelie không giam cầm tôi; nó đã giải phóng tôi để tôi tự do phát triển một góc nhìn khác về cuộc sống. Tôi nhìn thấy nhiều hơn từ một mét trên mặt đất so với khi tôi từng đứng thẳng để nhìn.
*****
*****
“ITS NAME WAS WHEELIE…”
AMANDA NGUYEN
Its name was Wheelie. Riding on slick, polished wheels, it was a three-foot-three-inch-high marvel of technology. Its existence and purpose formed a unique paradox—an ordinary object enabling its passengers to accomplish extraordinary things. I never thought that my seven months constrained to such a wonder could expand and change my outlook of life so drastically.
Then again, I never thought I’d be bound to a wheelchair.
One Monday morning of my junior year, the subtle but persistent trill of my faithful alarm clock wrenched me awake from my dreams and signaled the start of a new day. But instead of my warm, familiar room, I found myself staring into the stark interior of a hospital. The room was decorated with colorful wires, some of which connected me to the source of my query: a heart monitor that kept beeping in error.
A nurse rushed in to check the noise, and upon discovering that I was awake, bent over and clasped my hand. With an expression that read somewhere between I am sorry and God, why is it during my shift that I have to be the one to break to you the news, she informed me that my emergency heart surgery had failed. My cardiologist was much more forthright. “You are at a high risk of sudden death,” she stated matter-of-factly. The failed surgery had structurally damaged my heart, and I could die at any moment until the surgeons got a chance to correct their mistakes.
That’s when I met Wheelie.
I remember despising the wheelchair the first time I saw it—a tangible symbol of my newfound limitations. As time went on, less tangible but equally impairing barriers arose. I was told to stop. Stop school. Stop activities. Stop sports. Because, as my cardiologist phrased it, “Sudden death means that life stops.”
Not many people gave me much hope for maintaining my previous lifestyle. But WheelieQ reminded me that while the world couldn’t and wouldn’t wait for me to get better, I had the choice to move forward. Just as a wheelchair must carry its passenger, no matter the weight, I learned to roll on, no matter the obstacles.
If my legs didn’t feel up to moving, Wheelie helped me along.
If there was no school bell to force me to go to school, I’d force myself to wake up early anyway.
If they wouldn’t teach me AP Calculus because there was no way I could possibly succeed, I’d research integrals myself
If they said there was no way I could possibly coordinate a regional conference, I made it a point to show that I could and I would.
My efforts were not to prove my self-sufficiency. I did it as a way to get by, a method of dealing with what was supposed to be a monotonous wait for the Grim Reaper to knock on my door. In essence, by telling myself I could live, I found a way to live. A couple successful surgeries later, Wheelie has now retired to a cozy corner of my garage. As I walk past it to join my friends for another day at school, I will never forget the sturdy little wheels that taught me the definition of persistence and hope. My physical immobility, while debilitating, led to an immeasurable shift in maturation. Wheelie didn’t confine me; it gave me the freedom of another perspective on life. I saw more from three feet, three inches off the ground than I ever did standing upright.