Thế gian được vợ mất chồng
Sách “Từ điển thành ngữ tục – ngữ Việt Hán” (Nguyễn Văn Khang – NXB Văn hoá Sài Gòn -2008) đưa ra cặp đối chiếu Việt Hán: “thế gian được vợ hỏng chồng 彩鳳隨 鷄”.
Theo đây, Nguyễn Văn Khang cho rằng, “thế gian được vợ hỏng chồng” trong tiếng Việt, đồng nghĩa với “thái phượng tuỳ kê” trong tiếng Hán. Tuy nhiên, mục này có ba điểm cần trao đổi:
① Với tiếng Việt, nên đưa ra dị bản chính: “thế gian được vợ mất chồng” – cách nói đã được lưu truyền ổn định (được – mất tạo thành hai thái cực, chặt chẽ mà có nhịp điệu).
② Với tiếng Hán, bản chính xác phải là “彩鳳隨鴉” (thái phượng tuỳ nha = phượng hoàng đi với quạ đen), chứ không phải “彩鳳隨 鷄” (thái phượng tuỳ kê = phượng hoàng đi với gà), như Nguyễn Văn Khang thu thập. Phải là phượng hoàng đi với quạ đen, mới tạo nên sự chênh lệch theo lối thậm xưng của dân gian; còn phượng hoàng đi với gà, tuy cũng chênh lệch, nhưng chưa bị đẩy đến tột cùng của hai thái cực đẹp >< xấu đối lập, tương phản nhau.
③ “Thế gian được vợ mất chồng”, trong tiếng Việt, không đồng nghĩa với “thái phượng tuỳ nha” trong tiếng Hán. Bởi “Thế gian được vợ mất chồng”, ý dân gian muốn nói: rất ít cặp vợ chồng cả hai đều hoàn hảo (chủ yếu nói về phẩm chất, tính cách), mà thường vợ chồng bù trừ khiếm khuyết cho nhau. Hãy xem sự khôn khéo – vụng về, được – mất này là chuyện thường. Trong khi tiếng Hán: “彩鳳隨鴉” (thái phượng tuỳ nha – phượng hoàng đi với quạ đen) trong tiếng Hán được Hán ngữ đại từ điển giảng là “ví cô gái đẹp lấy phải người chồng thô tục.” [比喻淑女嫁鄙男].
Như vậy “phượng hoàng đi với quạ đen” trong tiếng Hán, đồng nghĩa với “cú đậu cành mai” (dị bản: hoài cành mai cho cú đậu) hoặc “hoài hồng ngâm cho chuột vọc” (dị bản: hoài hạt ngọc cho ngâu vầy) trong tiếng Việt, chứ không đồng nghĩa với “Thế gian được vợ hỏng chồng” như Nguyễn Văn Khang viết.
Vui lòng nhấn vào tag #Chữ Tây, chữ Ta để đọc các bài cùng chuyên mục