“Từ điển Thành ngữ-Tục ngữ Việt-Hán” của Nguyễn Văn Khang sai những gì?
“Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt – Hán” (Nguyễn Văn Khang – NXB Văn hóa Sài Gòn – 2008), mục “Thay lời nói đầu” của sách cho biết: “Cuốn từ điển này được xuất bản lần đầu vào năm 1999 với tên là “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt-Hoa” (NXB Khoa học Xã hội). Và lần xuất bản sau, tác giả “có chỉnh sửa và bổ sung nhất định. Chẳng hạn, về mặt hình thức có thay đổi sử dụng chữ Hán giản thể; về nội dung, có bổ sung thêm được một số thành ngữ, tục ngữ đối chiếu tương đương […] Là công cụ tiện lợi cho việc những người biên, phiên dịch, giao tiếp song ngữ Hoa-Việt và học tiếng Hoa, tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ…”.
Tuy nhiên trong thực tế, NVK đã thu thập, đối chiếu nhiều đơn vị thành ngữ tục ngữ Việt và Hán/Hoa không đồng nghĩa, thậm chí trái nghĩa nhau, khiến người dùng có thể mắc sai lầm khi tham khảo, hiểu lầm nhau, thậm chí xảy ra xung đột nhau khi vận dụng trong giao tiếp Việt-Trung. Nhiều thành ngữ tục ngữ sai về mặt văn bản, hoặc không tồn tại cả trong tiếng Việt và tiếng Hán, không tìm thấy trong bất cứ cuốn từ điển nào.
Soạn giả không phân biệt được sự khác nhau giữa thành ngữ tục ngữ Hán phiên âm Việt và thành ngữ tục ngữ Việt gốc Hán. Bởi vậy NVK đã “Hán hóa tiếng Việt” bằng cách bổ sung nhiều thành ngữ tục ngữ Hán vào kho tàng tiếng Việt một cách sống sượng. Mặt khác, nhiều thành ngữ tục ngữ gốc Hán đã được Việt hóa, lại bị NVK “Hán hóa” trở lại.
Trong từ điển, cấu trúc của các mục từ lộn xộn, không có thể thức ổn định; sai chính tả và lỗi văn bản khá nhiều. Qua so sánh chúng tôi thấy hầu như những sai sót của bản in lần đầu năm 1999 (với tên sách“Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt-Hoa”) đã được NVK bê nguyên xi sang bản in 2008 (với tên sách “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt – Hán”). Thậm chí bản năm 2008 nhiều lỗi hơn năm 1999. Sau đây, chúng tôi tạm chia thành một số dạng sai sót và đăng làm nhiều kỳ để bạn đọc tiện theo dõi:
Kỳ 1: Thu thập và đối chiếu nhiều đơn vị thành ngữ tục ngữ Việt và Hán không đồng nghĩa, thậm chí trái nghĩa:
“Lời nói đầu” (lần xuất bản 1999) NVK cho biết: “Nói một cách cụ thể về cách làm là, trước một thành ngữ tục ngữ tiếng Việt, chúng tôi cố gắng tìm cách thành ngữ tục ngữ tiếng Hoa tương đương”.
Về nguyên tắc của từ điển đối chiếu thành ngữ tục ngữ, thì cách ví von so sánh trong hai ngôn ngữ có thể khác nhau, nhưng nghĩa phải tương đương, hoặc ít nhất phải có một nghĩa tương đương. Tuy nhiên, rất nhiều cặp thành ngữ tục ngữ được NVK đối chiếu theo kiểu “ông nói gà, bà nói vịt”. Sau dây là một số trường hợp điển hình (phần trong ngoặc kép sau số mục là nguyên văn trong từ điển; phần xuống dòng tiếp theo là trao đổi của chúng tôi):
1- “ăn mật trả gừng: 恩將仇報 ēn jiāng qiú bào ≈ ăn miếng chả, trả miếng bùi” (sau mục từ này, phần “pinyin” trong nguyên văn từ điển sẽ được lược bỏ – HTC).
Mục này, NVK cho rằng “ăn mật trả gừng” đồng nghĩa với “恩將仇報” (ân tương cừu báo = lấy oán trả ân) và “ăn miếng chả, trả miếng bùi”.
Tuy nhiên, “ăn mật trả gừng” không tương ứng, thậm chí trái nghĩa với “ăn miếng chả, trả miếng bùi”. Vì “ăn mật trả gừng” chỉ kẻ ăn ở bội bạc: ăn thứ ngọt ngào, trả thứ đắng cay (dị bản: ăn quả vả, trả quả sung; ăn sung trả ngái); trong khi “ăn miếng chả, trả miếng bùi” lại có nghĩa “ân trả nghĩa đền”: đền đáp cân xứng cho người đã đối xử tốt với mình (dị bản ăn mận trả đào; ăn miếng ngọt, trả miếng bùi).
2-“ăn miếng chả, trả miếng bùi x. ăn mật trả gừng”.
Mục này lặp lại cái sai của mục 1: “ăn miếng chả, trả miếng bùi” trái nghĩa với “ăn mật trả gừng”. Bởi vậy, chỉ dẫn “x. ăn mật trả gừng” để hiểu “ăn miếng chả, trả miếng bùi” như một cặp tương ứng là sai.
3-“ba cọc ba đồng: 小本薄利”.
Mục này, NVK cho rằng “ba cọc ba đồng” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “小本薄利” (tiểu bản bạc lợi) trong tiếng Hán.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt (viết tắt là Việt) “ba cọc ba đồng” được hiểu: ngoài khoản thu nhập ít ỏi nhất định, không có bổng lộc hay nguồn thu nào khác; trong khi tiếng Hán (Hán): “tiểu bản bạc lợi” (vốn nhỏ thì lãi ít), ý nói muốn buôn bán lớn phải có vốn lớn. Nếu cần đối chiếu thì câu “Buôn tài không bằng dài vốn” của Việt mới đồng nghĩa với “tiểu bản bạc lợi”.
4-“chơi với chó chó liếm mặt: 玩眷蛇,被蛇咬; 養虎遺患”.
Mục này, NVK cho rằng, tiếng Việt “chơi với chó chó liếm mặt”, đồng nghĩa với “玩眷蛇,被蛇咬” (ngoạn quyến xà, bị xà giảo) và “養虎遺患” (dưỡng hổ di hoạn) tiếng Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt: “chơi với chó, chó liếm mặt” có nghĩa: quá nuông chiều, suồng sã với kẻ dưới, chúng sẽ khinh nhờn, sinh thói hỗn láo với bề trên; trong khi Hán cũng như Việt gốc Hán: “ngoạn quyến xà, bị xà giảo”(chơi với rắn, bị rắn cắn); “dưỡng hổ di hoạn” (nuôi hổ để hoạ về sau) lại có nghĩa nuôi dưỡng chứa chấp kẻ xấu sẽ bị chúng làm hại. Hán ngữ đại từ điển giảng: “dưỡng hổ tự di hoạn: ví việc dung dưỡng kẻ thù, sẽ tự chuốc lấy hậu hoạ.” [養虎自遺患: 比喻縱容敵人,自留後患].
5-“chưa đẻ đã đặt tên 未卜先知”.
Mục này NVK cho rằng “chưa đẻ đã đặt tên” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “未卜先知” (vị bốc tiên tri) Hán.
Tuy nhiên, “chưa đẻ đã đặt tên” trong tiếng Việt hàm ý chê sự hấp tấp, vội vàng, không biết sắp xếp công việc theo trình tự hợp lí (đồng nghĩa “chưa nặn bụt đã nặn bệ”); trong khi “vị bốc tiên tri” (chưa bói đã biết) tiếng Hán lại hàm ý khen tài “tiên tri” của ai đó:
–Hán ngữ đại từ điển giảng: “vị bốc tiên tri: Xưa kia mê tín, lấy việc bói toán để đoán lành dữ. Vị bốc tiên tri (chưa bói đã biết) ý chỉ sự minh tuệ, có thể thấy trước được vấn đề”. [未卜先知: 舊時迷信, 以占卜能預知吉凶. 未卜先知, 形容有先見之明].
Như vậy, “chưa đẻ đã đặt tên” trong tiếng Việt không hề có nghĩa “tương đương” với “vị bốc tiên tri” trong tiếng Hán.
6-“dạy khỉ leo cây 成人之惡”.
Mục này, NVK cho rằng “dạy khỉ leo cây” trong tiếng Việt, đồng nghĩa với “成人之惡” (thành nhân chi ác) trong tiếng Hán.
Tuy nhiên, NVK đã lầm. “Dạy khỉ leo cây” trong tiếng Việt “ví việc làm thừa, đi bày cho người khác làm một việc mà họ đã quá quen thuộc, quá thành thạo. Đn: dạy đĩ vén váy” (Từ điển Hoàng Phê – Vietlex); trong khi “thành nhân chi ác” trong tiếng Hán, lại ám chỉ kẻ tiểu nhân giúp người khác làm điều ác. Nguyên ý này trong “Luận ngữ – Nhan Uyên”: “quân tử thành nhân chi mĩ, bất thành nhân chi ác, tiểu nhân phản thị = quân tử giúp người làm điều tốt, không giúp người làm điều ác, tiểu nhân làm ngược lại.” [君子成人之美: 謂君子當促成他人之好事.“論語‧顏淵”:“君子成人之美,不成人之惡,小人反是].
Như vậy, NVK đã hiểu sai thành ngữ Việt “dạy khỉ leo cây” (làm một việc thừa) thành giúp người làm điều ác, nên mới đem đối chiếu với thành ngữ “thành nhân chi ác” trong tiếng Hán.
7-“đổ nhớt cho nheo 多此一舉”.
Mục này, NVK cho rằng “đổ nhớt cho nheo” Việt, đồng nghĩa với “多此一舉” (đa thử nhất cử) Hán.
Tuy nhiên, “đổ nhớt cho nheo” (dị bản “trút nhớt cho nheo”, hoặc “trút nhớt cho lươn”) Việt, có nghĩa là lợi dụng khuyết điểm của người khác để trút/đổ hết cái xấu cho họ. Ví như cá nheo và lươn đều nhiều nhớt, nên bất kể cái gì tanh nhớt đều mượn cớ mà quy tội cho chúng. Giống như trong xóm có kẻ hay ăn trộm, thì lợi dụng tiếng xấu ấy để nếu ăn trộm của ai thì cứ đổ thừa cho nó là xong. Trong khi “đa thử nhất cử” trong tiếng Hán, được Hán ngữ đại từ điển giảng là: “việc làm thừa, hành động không cần thiết.” [多此一舉: 做不必要的,多餘的事情].
Có lẽ NVK đã hiểu “đổ nhớt cho nheo” Việt, theo ý: cá nheo đã nhiều nhớt rồi, giờ đổ thêm nhớt cho nó là việc làm thừa, không cần thiết, nên mới đem so sánh với “đa thử nhất cử” Hán.
Tham khảo: Nếu cần đối chiếu, thì “đa thử nhất cử” (việc làm thừa, hành động không cần thiết) của Hán, sẽ đồng nghĩa với “dạy đĩ vén váy” (dị bản “dạy khỉ leo cây”) Việt.
8-“lợn lành chữa thành lợn què 畫虎不成反類犬”.
Mục này NVK cho rằng “lợn lành chữa thành lợn què” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “畫虎不成反類犬” (hoạ hổ bất thành phản loại khuyển) Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt: “lợn lành chữa thành lợn què” chỉ người vụng về, phá hoại, vật dụng đang tốt bỗng dưng đem ra sửa, thành hư hỏng, hoặc nói chữa bệnh mà bệnh lại nặng hơn lúc chưa chữa (dị bản: Chẳng chữa thì sống, chữa thì kèn trống ra đồng); trong khi Hán: “hoạ hổ bất thành phản loại cẩu” (vẽ hổ không thành lại thành chó), lại có nghĩa muốn bắt chước làm việc lớn mà bất tài thì cuối cùng dễ trở thành trò cười cho thiên hạ.
Hán ngữ đại từ điển giảng: “hoạ hổ bất thành phản loại cẩu: ví như muốn làm điều gì cao xa ghê gớm, nhưng chung quy thất bại, trở thành trò cười cho thiên hạ; cũng chỉ việc bắt chước mà không thành, không ra cái gì.” [畫虎不成反類狗: 比喻好高鶩遠,終無成就,反貽笑柄;喻仿效失真,反而弄得不倫不類].
Hán ngữ đại từ điển có dẫn điển tích “hoạ hổ bất thành phản loại cẩu” – lời khuyên con cháu của Mã Viện trong “Hậu Hán thư – Mã Viện truyện” như sau: “Đỗ Quý Lương hào hiệp, hiếu nghĩa, lo cái lo của người, vui với cái vui của người, kẻ xấu người tốt đều không mất lòng. Khi cha Đỗ Quý Lương mất, người trong mấy quận đều đến viếng. Ta mến trọng ông ấy, nhưng không muốn mày bắt chước…Bắt chước Quý Lương không thành, chỉ khiến thiên hạ chê cười, đó gọi là vẽ hổ không thành hổ mà lại thành chó vậy.” [後漢書 – 馬援傳: “杜季良豪俠好義,憂人之憂,樂人之樂,清濁無所失,父喪致客,郡畢至,吾愛之重之,汝曹效也…效季良不得, 陷為天下輕薄子, 所謂畫虎不成反類狗者也].
9-“quá mù ra mưa 小題大做”.
Mục này, NVK cho rằng “quá mù ra mưa” Việt, đồng nghĩa với “小題大做” (tiểu đề đại tố) Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt “quá mù ra mưa” chỉ sự việc nhỏ, không đáng kể, nhưng vượt quá ngưỡng một chút, thì sẽ chuyển sang trạng thái tính chất khác, ở mức độ nghiêm trọng hơn. Ví như sương mù thường chỉ tồn tại dưới dạng hơi nước li ti, bay lơ lửng trong không khí, nhưng nếu nặng hạt một chút, thì sẽ rơi xuống thành mưa. Trong khi “tiểu đề đại tác” (dị bản NVK = “tiểu đề đại tố”) được Hán ngữ đại từ điển giảng 2 nghĩa như sau:
-“1. Thời Minh, Thanh, thi cử lấy câu văn trong “Tứ thư” làm mệnh đề, gọi là “tiểu đề”; lấy câu văn trong “Ngũ kinh” làm mệnh đề, gọi là “đại đề”. “Tiểu đề đại tác” vốn chỉ dùng phép viết văn trong “Ngũ kinh” làm văn tứ thư; sau chỉ việc lấy đề mục nhỏ để sáng tác nên áng văn lớn; 2. ví với việc nhỏ mà thổi phồng thành lớn, hoặc biến thành việc lớn khi xử lý.” [小題大做亦作 “小題大作”: 1. 明清:科舉考試,以“四書”文句命題叫“小題”,以“五經”文句命題叫“大題”.“小題大作”本謂以五經文之法作四書文,後引申為拿小題目作大文章;2.喻把小事渲染得很大,或當作大事來處理.有不值得,不恰當的意思.].
Như vậy, nếu cần đối chiếu thì “tiểu đề đại tố” (nghĩa 2) trong tiếng Hán, sẽ có nghĩa tương đương với “bé xé ra to” trong tiếng Việt.
10-“từ cõi chết trở về: 妙手回春”.
Mục này, NVK cho rằng “từ cõi chết trở về” tiếng Việt đồng nghĩa với “妙手回春” (diệu thủ hồi xuân) tiếng Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt: “từ cõi chết trở về”, ví ai đó vừa trải qua một tai nạn hoặc trận ốm tưởng chết (gần nghĩa “thập tử nhất sinh”); trong khi Hán: “diệu thủ hồi xuân” lại hàm ý ca ngợi bàn tay thầy thuốc giỏi (đồng nghĩa “cải tử hoàn sinh”). Hán ngữ đại từ điển giảng: “diệu thủ hồi xuân: Nói y thuật cao siêu của thầy thuốc có thể chữa khỏi được những bệnh trọng.” [妙手回春: 謂醫生醫術高超, 能把垂危的病人治愈].
Như vậy, “từ cõi chết trở về” là nói về bệnh nhân vừa thoát khỏi cơn bạo bệnh hoặc khó khăn hoạn nạn; trong khi “diệu thủ hồi xuân” lại là câu tôn xưng thầy thuốc giỏi.
11-“vén tay áo xô, đốt nhà táng giấy: 袖手旁觀”.
Mục này, NVK cho rằng “vén tay áo xô(sic), đốt nhà táng giấy” trong tiếng Việt đồng nghĩa “袖手旁觀” (tụ thủ bàng quan) trong tiếng Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt: “Vén tay áo sô, đốt nhà táng giấy” ý nói việc tiêu xài, phá phách tiền của do người khác làm ra (thường hiểu là tiền tài của cha mẹkhông chút tiếc nuối (đồng nghĩa “phá gia chi tử”); trong khi Hán: “袖手旁觀” (tụ thủ bàng quan = khoanh tay đứng nhìn) lại có nghĩa bàng quan, thờ ơ trước mất mát, tai hoạ của người khác. Hán ngữ đại từ điển giảng: “tụ thủ bàng quan: giấu tay trong áo, bàng quan đứng nhìn, ví như kẻ hoàn toàn đứng ngoài, không tham gia vào sự việc”. [袖手旁觀: 藏手於袖, 在旁觀看. 比喻置身事外, 不參預其中].
Như vậy, “袖手旁觀” (tụ thủ bàng quan) trong tiếng Hán đồng nghĩa Việt “Cháy nhà hàng phố bình chân như vại”, “Hững hờ như hàng tổng đánh kẻ cướp” mới đúng.
12-“ngu như bò 遼東之豕”.
Mục này, NVK cho rằng “ngu như bò” trong tiếng Việt, đồng nghĩa với “遼東之豕” (Liêu Đông chi thỉ) trong tiếng Hán. Tuy nhiên, trong tiếng Việt: “ngu như bò” hay “dốt như bò”, ý chỉ dốt nát, học hành kém cỏi, không có khả năng tiếp thu; trong khi Hán: “遼東之豕” (Liêu Đông chi thỉ) lại ý chỉ kiến văn hạn hẹp, hiểu biết nông cạn.
Lỗi này do tác giả bê nguyên cách hiểu sai từ sách “Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán” (Trung tâm Khoa học và Nhân văn Quốc gia – Viện Ngôn ngữ học; Như Ý – Nguyễn Văn Khang – Phan Xuân Thành, NXB Văn hoá Thông tin – 1994), trong đó Nguyễn Văn Khang là đồng tác giả. Sách này giải thích như sau: “Liêu đông chi thỉ: Ngu độn, kém hiểu biết, ví như con lợn của Liêu Đông vậy”. Không biết “con lợn của Liêu Đông” là con lợn gì, và tại sao nó lại ngu hơn những con lợn khác?
Thực ra thành ngữ “Liêu Đông chi thỉ” vốn xuất phát từ tích Bành Sủng thời Tây Hán bất mãn vì không được trọng dụng, Chu Phù – người vốn không ưa Bành Sủng liền gửi thư với ý sỉ nhục, ví công lao của ông này chẳng khác nào “Liêu Đông thỉ”. Hán ngữ đại từ điển trích lời Chu Phù và giảng như sau: “Liêu Đông thỉ: “Hậu Hán thư – Chu Phù truyện”: “Xưa ở Liêu Đông có con lợn nái đẻ ra một con lợn đầu trắng. Chủ nhân cho là dị thường, liền đem tiến vua. Khi đến đất Hà Đông mới thấy một đàn lợn toàn những con đầu trắng. Người này lấy làm xấu hổ quay về. Nếu đem công lao của ông (tức Bành Sủng – HTC) mà luận ở triều đình, thì cũng giống như con lợn ở Liêu Đông mà thôi. Sau này thành ngữ ‘Liêu Đông thỉ’ chỉ người kiến thức nông cạn, kiến văn hạn chế, thấy gì cũng lạ.” [遼東豕 “後漢書 – 朱浮傳”: “往時 遼東 有豕,生子白頭,異而獻之,行至河 東, 見群豕皆白,懷慚而還. 若以子之功 論於朝廷, 則為 遼東 豕也.” 後以 “遼東豕” 指知識淺薄, 少見多怪].
Theo đây, “Liêu Đông chi thỉ” trong tiếng Hán, có chăng gần nghĩa với “ếch ngồi đáy giếng” chứ không thể đồng nghĩa với “ngu như bò” trong tiếng Việt.
13-“ngu như lợn 遼東之豕”.
Mục này lặp lại cái sai của mục 12. Theo đây, “ngu như lợn” trong tiếng Việt hoàn toàn không đồng nghĩa với “遼東之豕” (Liêu Đông chi thỉ) trong tiếng Hán (xem lại mục 12). GS. TS. Nguyễn Văn Khang là người tu nghiệp tại Bắc Kinh, từng biên soạn và tham gia biên soạn nhiều công trình từ điển liên quan đến Hán học nói chung và Hán ngữ, thành ngữ tục ngữ Hán nói riêng, nhưng không hiểu sao tác giả lại luôn lộ ra những sai sót rất sơ đẳng về lĩnh vực này như vậy.
14-“cứt trâu để lâu hoá bùn 夜長夢多”.
Mục này NVK cho rằng “để lâu cứt trâu hoá bùn” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “夜長夢多” (dạ trường mộng đa) Hán.
Tuy nhiên, tiếng Việt: “cứt trâu để lâu hoá bùn” nói tiền của, vật dụng hoặc vấn đề nào đó, nếu để lâu không đòi, không nhắc đến sẽ có nguy cơ bị quên lãng, hoặc lợi dụng đó mà xí xoá; trong khi Hán: “夜長夢多” (dạ trường mộng đa), lại tương ứng với “đêm dài lắm mộng” của Việt: sự việc gì không thương lượng dứt điểm, để đối tác có thêm thời gian, sẽ thay đổi ý định hoặc nảy ra mưu kế mới, gây bất lợi. Hán ngữ đại từ điển giảng: “dạ trường mộng đa: sự việc qua thời gian dài ắt nảy sinh thay đổi bất lợi.” [夜長夢多: 喻歷時長則事情可能發生不利的變化].
15-“trước sau bất nhất 有始無終”.
Mục này có hai điểm cần trao đổi:
①-Tiếng Việt không có dị bản “trước sau bất nhất”, mà chỉ có “tiền hậu bất nhất”. Thành ngữ này có một nghĩa đồng nghĩa với “hữu thuỷ vô chung”. Từ điển Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập): “tiền hậu bất nhất [tiền hậu bất nhứt] • Trước và sau không giống nhau. • Chỉ người ăn ở hay thay lòng đổi dạ, không có thuỷ chung.”.
②-“有始無終” (hữu thuỷ vô chung) trong tiếng Hán, không đồng nghĩa với “hữu thuỷ vô chung” trong tiếng Việt. Hán ngữ đại từ điển giải thích: “hữu thuỷ vô chung: nói làm việc gì có đầu mà không cuối, không kiên trì đến cùng.” [有始無終: 謂做事有頭無尾, 不能堅持到底]. Trong khi tiếng Việt “hữu thuỷ vô chung • Không có thuỷ-chung; chỉ người ăn ở trước sau không nhất-tâm, thay lòng đổi dạ” (Từ điển Việt Nam phổ thông – Đào Văn Tập).
Như vậy, “hữu thuỷ vô chung” là thành ngữ gốc Hán, được dùng theo nghĩa mới trong tiếng Việt. Nếu cần đối chiếu, thì “有始無終” (hữu thuỷ vô chung) trong tiếng Hán, sẽ đồng nghĩa với “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột” tiếng Việt.
Chúng tôi xin dừng ở con số 15 mục thuộc về lỗi đối chiếu các đơn vị thành ngữ tục ngữ Việt và Hán không đồng nghĩa, thậm chí trái nghĩa, gây ra sự hiểu lầm, thậm chí là xung đột khi phiên dịch hoặc giao tiếp. Sự phân loại này chỉ mang tính tương đối, bởi có khi cùng một mục từ, nhưng phạm nhiều lỗi, và chúng tôi sẽ tiếp tục dẫn chứng trong những kì tiếp theo với tiêu đề “Thu thập nhiều dị bản thành ngữ tục ngữ Việt thiếu chính xác; nhiều dị bản không tồn tại trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán”.