Từ “túi đom đóm” của Tàu đến “trứng đom đóm” của Ta

Đời Tấn (晉) có người học trò tên là Xa Dận (車胤), tự Vũ Tử (武子), thông minh dĩnh ngộ ham học, nhưng gia cảnh bần hàn. Nhà nghèo, không đủ tiền mua dầu thắp sáng, nên vào những đêm hè, Xa Dận bắt đom đóm bỏ vào một cái túi lụa, gọi là “nang huỳnh” 囊螢 (túi đom đóm) để tạo ra ánh sáng đọc sách thâu đêm. Đến khi trưởng thành, Xa Dận càng nổi danh mẫn tiệp, thông tuệ, sau làm tới chức Lại bộ thượng thư.

Cũng vào đời Tấn, còn có một anh học trò khác, tên Tôn Khang (孫康), nhà cũng rất nghèo. Tối đến không có dầu đèn để xem sách, Tôn Khang cảm thấy đêm dài như vô tận. Đến mùa đông tuyết rơi, anh học trò nghèo Tôn Khang thường ngồi cạnh cửa sổ, nhờ ánh sáng phản chiếu của tuyết trong đêm để đọc sách, sau thành tài, làm quan tới chức Ngự sử đại phu.

Người đời sau đặt nên thành ngữ “Tôn Khang ánh tuyết, Xa Dận tụ huỳnh” 孫康 映雪, 車允聚螢 (Tôn Khang đọc sách bằng ánh tuyết, Xa Dận đọc sách bằng đèn đom đóm); “Nang huỳnh độc thư” 囊螢讀書 (Đọc sách bằng túi đựng đom đóm) hay “Ánh tuyết độc thư” 映雪讀書 (Đọc sách bằng ánh sáng của tuyết) chỉ những tấm gương hiếu học, vượt qua mọi gian khổ. Các dị bản “Nang huỳnh tích tuyết”; “Tập huỳnh ánh tuyết”; “Tụ huỳnh tích tuyết”; “Chiếu huỳnh ánh tuyết”,…đều chỉ hai tấm gương hiếu học Xa Dận và Tôn Khang đời Tấn.

Vậy, sự thực người ta có thể đọc sách bằng ánh sáng của đom đóm bỏ vào túi vải lụa, hoặc ánh sáng phản chiếu của tuyết không?

Theo tôi, cũng có thể đọc được, nhưng rất khó. Đọc trong chốc lát đã khó. Nhờ đọc sách bằng cách ấy mà thành tài lại càng khó. Nhưng, chính vì khó, mới trở thành giai thoại, huyền thoại. Chính vì khó, mà trải qua hàng ngàn năm, đất nước Trung Quốc rộng lớn với hàng tỉ người, nhưng đọc sách bằng ánh sáng đom đóm cũng chỉ dừng lại con số một duy nhất – một người duy nhất sống ở thời kỳ mà hư thực thường hay ẩn hiện trong màn sương huyền hoặc. Bởi vì khó, nên mới được sử sách lưu danh. Nếu đọc được sách dễ dàng, thì chắc hẳn “đèn đom đóm”, hay “ánh tuyết” đã trở thành một thứ “năng lượng” được người khai thác rộng rãi, chứ không chỉ dừng ở những giai thoại trong sách vở.

Nhiều câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu” (24 gương hiếu) của người Trung Quốc cũng huyền hoặc chẳng khác nào gương “Nang huỳnh ánh tuyết”. Ví như “Ngọa băng cầu lý” kể chuyện Vương Tường đời Tấn. Vì mẹ thèm cá chép, mà đương mùa đông Vương Tường vẫn nằm trên băng giá lạnh, cố tìm cho được. Rồi bỗng dưng băng nứt ra cả đôi cá chép. Hay “Khốc trúc sinh duẫn”, kể chuyện Mạnh Tông đời Tam Quốc. Giữa mùa đông giá lạnh, nhưng vì mẹ ốm, thèm canh măng, nên Mạnh Tông vào rừng, ngồi bên gốc trúc để khóc, bỗng đất trồi lên mấy giò măng.

Có lẽ chẳng cần làm thí nghiệm, người ta cũng hiểu rằng, đó chỉ là những câu chuyện do người Trung Quốc sáng tác, “điển hình hoá” để tôn xưng những tấm gương hiếu học, hiếu với mẹ cha, nêu cao cho đời sau, chứ không có thực (*).

Ở Việt Nam, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cũng được người đời vì quý mến mà gắn với câu chuyện đọc sách bằng đèn đom đóm. Không ai tức giận, hoặc phản đối giai thoại này, bởi lẽ ông sống vào thời kỳ mà về sau những câu chuyện mang tính chất huyền sử vẫn được truyền tụng. Và có lẽ trên hết, Mạc Đĩnh Chi là người tài năng và có công tích thực sự với dân, với nước.

(*) Hồi nhỏ, chúng tôi cũng hay bắt đom đóm bỏ vào cái bóng đèn dầu Hoa Kỳ (to hơn quả trứng gà một chút), rồi dùng mảnh ni lông bịt hai đầu lại. Hàng chục con đom đóm thi nhau phát sáng, khiến cả chiếc bóng đèn trông như quả cầu lửa màu sáng trắng. Chúng tôi buộc dây vào một đầu, rồi vung lên trong bóng đêm, khiến người yếu bóng vía có khi bị một phen hết hồn. Nếu đặt bóng đèn xuống trang sách, thì cũng lờ mờ đọc được một vài chữ. Nhưng ánh sáng đom đom đóm không bền. Điều này dễ hiểu, vì ở ngoài tự nhiên, chúng phát sáng là để hấp dẫn bạn tình. Khi bị bắt bỏ vào bóng đèn, ánh sáng đom đóm sẽ yếu dần, cho đến lúc không phát sáng nữa. Thực tế, không ít đứa trẻ bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng, hay chai thủy tinh, hoặc bất cứ vật gì có thể nhìn thấu qua. Nhưng mục đích chính là để chơi, để nghịch, chứ không phải để “đọc sách”, cho dù chúng có để lên trang sách thật.

Chuyên đề bookmark

Chữ nghĩa

Cùng Tác Giả: Hoàng Tuấn Công

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 2)

Hoàng Tuấn Công (27/04/2021)

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 2) b – Hiểu sai nghĩa của từ và yếu tố Hán Việt: 9 -“Ăn bậy nói càn: Ngày xưa, ở các bến đò, cổng chợ, có những người làm thuê, gánh mướn, thường tụ tập đón khách để…

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 1)

Hoàng Tuấn Công (27/04/2021)

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 1) Sách “Thành ngữ bằng tranh” (Biên soạn: Nguyễn Thị Hường Lý; Tranh: Nguyễn Quang Toàn – NXB Kim Đồng, 2020). NXB Kim Đồng cho biết, sách “Thành ngữ bằng tranh” là một cuốn “từ điển bỏ túi với…

“Bắt chấy cho mẹ chồng thấy bồ nông dưới biển” là thế nào?

Hoàng Tuấn Công (16/11/2020)

  Tục ngữ Việt Nam có câu: “Bắt chấy cho mẹ chồng thấy bồ nông nông dưới bể”. Các Nhà biên soạn từ điển, nghiên cứu văn hóa dân gian giải thích: – “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TPHCM-2012) ghi chú: “Chưa rõ nghĩa”. – “Tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Chu Xuân Diên-Lương…

Chuyên Đề: Chữ nghĩa

Nghĩ về ngôn ngữ sách giáo khoa

Lê Nguyễn (17/10/2025)

Có lẽ ở hầu hết các dân tộc trên thế giới, ngôn ngữ bao giờ cũng có trước văn tự. Ở nước ta cũng thế, ngay từ khi lập quốc, người Việt đã có ngôn ngữ riêng, mãi đến thế kỷ 13-14, dưới thời Trần, mới có một văn tự…

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 2)

Hoàng Tuấn Công (27/04/2021)

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 2) b – Hiểu sai nghĩa của từ và yếu tố Hán Việt: 9 -“Ăn bậy nói càn: Ngày xưa, ở các bến đò, cổng chợ, có những người làm thuê, gánh mướn, thường tụ tập đón khách để…

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 1)

Hoàng Tuấn Công (27/04/2021)

Một số sai sót trong sách “Thành ngữ bằng tranh” (Kỳ 1) Sách “Thành ngữ bằng tranh” (Biên soạn: Nguyễn Thị Hường Lý; Tranh: Nguyễn Quang Toàn – NXB Kim Đồng, 2020). NXB Kim Đồng cho biết, sách “Thành ngữ bằng tranh” là một cuốn “từ điển bỏ túi với…

“Bắt chấy cho mẹ chồng thấy bồ nông dưới biển” là thế nào?

Hoàng Tuấn Công (16/11/2020)

  Tục ngữ Việt Nam có câu: “Bắt chấy cho mẹ chồng thấy bồ nông nông dưới bể”. Các Nhà biên soạn từ điển, nghiên cứu văn hóa dân gian giải thích: – “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TPHCM-2012) ghi chú: “Chưa rõ nghĩa”. – “Tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Chu Xuân Diên-Lương…

“Giấy thông hành” của cáo

Hoàng Tuấn Công (06/11/2020)

Cùng một loài vật, cỏ cây, muông thú, nhưng với mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trên thế giới chúng lại được con người nhìn nhận, hoặc xây dựng thành những biểu tượng khác nhau. Tuy nhiên, cũng có những biểu tượng chung cho mọi nền văn hóa, những tri thức…

Sai sót trong “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt-Hán”

Hoàng Tuấn Công (02/11/2020)

Nguyễn Văn Khang (NVK) là tác giả và đồng tác giả của 19 cuốn từ điển tiếng Việt. Về từ điển chính tả, NVK có “Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông” (NXB Khoa học Xã hội – 2003) và “Từ điển chính tả tiếng Việt” (GS. TS. Nguyễn…

Bài Ngẫu Nhiên

Báo chí: Tất cả đều nằm trong rọ

Mạnh Kim (08/06/2024)

Báo chí nói chung đang rất nghẹt thở. Mạng xã hội tương tự. Tất cả đều có thể bị “giết” thẳng tay bởi hai điều luật cực kỳ mơ hồ là 331 và 117.

Cờ vàng ở hải ngoại

Mạnh Kim (10/09/2025)

Cờ vàng không chỉ là biểu tượng. Giá trị tinh thần lớn nhất của cờ vàng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, sau nửa thế kỷ, là gì?

Tiểu luận Harvard – Elizabeth Sun

Phan Hoàng My (27/12/2020)

“Hôm nay vẽ chiếc bình này rồi hãy về nhé” – cô giáo ra lệnh và nhét vô tay tôi mớ cọ sơn lạ hoắc. Tôi nghệch mặt ra. Bảng màu đâu, sách hướng dẫn kỹ thuật đâu? Tại sao nụ cười của cô lại chắc mẩm như vậy. Cô…

Lịch sử cái bàn Tổng thống Hoa Kỳ

Kim Nguyên (22/09/2020)

Cái bàn dành riêng cho tổng thống Mỹ trong Nhà trắng là một trong những vật dụng có “bề dày lịch sử” đáng kinh ngạc. Cuộc đời của nó lắm truân chuyên và có lúc tưởng chừng bị biến thành gỗ tạp… Nguồn gốc cái bàn là phiến gỗ từ…

Ngu như bò

Hoàng Tuấn Công (27/09/2020)

Sách “Từ điển thành ngữ tục – ngữ Việt Hán” (Nguyễn Văn Khang – NXB Văn hoá Sài Gòn -2008) đưa ra các cặp đối chiếu Việt Hán: “ngu như bò 遼東之豕”;  “ngu như lợn 遼東之豕”. Theo đây, Nguyễn Văn Khang cho rằng “ngu như bò” và “ngu như lợn”…