Tướng hưu Nguyễn Từ Huấn, người nặng nợ hai chữ Việt Nam

Tướng hưu Nguyễn Từ Huấn (chụp tại tư gia ông Huấn, Tháng Chín, 2024 – ảnh: Mạnh Kim)

ENGLISH VERSION BELOW

(The Story of Retired Rear Admiral Nguyễn Từ Huấn, a Man Bound by the Words “Việt Nam”)

_________

Năm năm sau bài báo tôi viết về Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Nguyễn Từ Huấn đăng trên VOA, tôi gặp lại ông vào một ngày Tháng Chín, 2024. Tướng Nguyễn Từ Huấn vẫn vậy, với sự khiêm nhượng vốn dĩ khi ông nói về những gì đang làm kể từ ngày nghỉ hưu năm 2022. Cuộc trò chuyện vẫn xoay quanh về sự nặng nợ của ông với hai chữ Việt Nam…

Nhắc lại Tướng Huấn

Bài báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman cách đây 50 năm, đề ngày 20 Tháng Năm, 1975, với hình cậu thiếu niên Nguyễn Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà binh. Con đường binh nghiệp đã giúp ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên trở thành Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ…

Năm 1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác sau ngày 30 Tháng Tư 1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại học Oklahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các bằng thạc sĩ tại ba đại học: Đại học Southern Methodist, Đại học Purdue và Đại học Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên chiến đấu cơ.

Năm 1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn đăng ký vào quân ngũ. Năm 1993, ông trở thành sĩ quan Hải quân trừ bị. Trong thời gian này, ông làm việc thêm ở Bộ Năng lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt chuyên nghiên cứu kỹ thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ Bộ Năng lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng…

Năm 1993, internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website. Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn được mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải quân. Tiếng nói của anh Thiếu úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network warfare”.

Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm Thiếu tá Huấn được đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6 Tháng Hai, 2006.

Một trong những bằng sáng chế của ông Nguyễn Từ Huấn (ảnh: Ông Nguyễn Từ Huấn cung cấp)

“Cách đây 44 năm, tôi là một trong những người tỵ nạn, lòng lo lắng cho một tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây. Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng… Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày 30 Tháng Tư, 2019 đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial).

1968

Không muốn trở thành tâm điểm truyền thông, ông Nguyễn Từ Huấn gần như luôn tránh tiếp xúc báo chí, bởi đơn giản ông không bao giờ có thể nén được cảm xúc khi nhắc lại sự kiện kinh khủng trong đó bố mẹ và năm anh em mình bị thảm sát năm 1968. Ông có thể vượt qua tất cả thử thách để trở thành một người như hôm nay nhưng ký ức kinh hoàng của ngày mà ông chứng kiến tất cả khi mới 10 tuổi thì thật không dễ đối mặt. Trong mọi nỗ lực lớn nhất trong cuộc đời, cuộc đối diện trước ống kính truyền thông để nhắc lại sự kiện 1968 có lẽ là cố gắng kinh khủng nhất của ông.

Câu chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh điều đó vì câu chuyện đã trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên cường của bố và mẹ ông trước họng súng toán đặc công.

Ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến. Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út mà mẹ bế trên tay, khi họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên – quốc gia và cộng sản – đã thỏa thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng không thể quên cảnh toán đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi thể mà chúng vừa thảm sát man rợ.

Có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ chín tuổi duy nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một vết đạn, từ màn thảm sát trước đó chỉ vài phút, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó là lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã không chết.

Là một người Việt

Vài giờ của thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu thân 1968 đã trở thành cơn ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã và đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn nghèo khó, ông Huấn đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn. Nước mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn đến giờ vẫn còn nằm sâu trong đầu. Ông tự nhủ phải trả cho được “món nợ” lương tri, cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành.

Ông Huấn có một sứ mạng trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông chọn binh nghiệp, vì quân đội mới là hình ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tỵ nạn như ông, một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền. Tuy nhiên, “món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ lớn nhất đối với ông Huấn.

Có một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân, để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình.

So với thái độ và cung cách hợm hĩnh quen thuộc của tướng lĩnh quân đội cộng sản Bắc Việt, ông Huấn có một sự tương phản dữ dội. Ông không hề bày tỏ hận thù, dù yếu tố hung ác của bản thân sự kiện là đủ kinh khủng để có thể khiến gần như bất kỳ ai khác phải nhắc đến với một thái độ khác. Ông nói đến sự kiện như một câu chuyện mà bản thân nó đã thành một phần của bi kịch cuộc chiến. Con người ông, gặp bên ngoài, rất nhẹ nhàng và lịch sự, đến độ có thể khiến người ta nghĩ rằng môi trường làm việc của ông phải là giảng đường đại học chứ không phải “quân trường” nơi ông là một vị tướng chỉ huy. Điều gì đã giúp ông Huấn trở thành con người tài năng và khiêm nhượng như vậy? Chắc chắn là sự giáo dục.

Ông đã được gia đình người chú ruột cưu mang, dạy dỗ và thương yêu như con ruột. Ông được nuôi dưỡng trong một môi trường mà tình thương không chỉ là bàn tay thương yêu mà còn với ánh mắt nghiêm khắc. Có lẽ cũng từ sự giáo dục tốt (trong một gia đình gốc Bắc di cư 1954) mà ông Huấn không bao giờ quên mình là người Việt. Trò chuyện với ông, ông luôn nhắc về quê hương.

Khi được hỏi tại sao trưởng thành và sống trong môi trường văn hóa Mỹ nhưng ông vẫn nói và viết tiếng Việt như chưa từng rời khỏi Việt Nam, ông nói rằng Việt Nam mãi mãi là cội nguồn của ông. Ông đến giờ vẫn luôn xúc động đến mức có thể khóc khi nghe một ca khúc quê hương của Phạm Duy. Ông vẫn đọc sách tiếng Việt và vẫn nhắc con cái mình không được phép quên hai chữ Việt Nam.

“Món nợ mới” của Tướng hưu Nguyễn Từ Huấn: Vẫn là hai chữ Việt Nam  

Trong lần gặp ông Huấn vào Tháng Chín, 2024, tôi nhắc lại câu hỏi mà tôi từng ghi lại trong bài viết đăng trên VOA năm 2019, rằng, sau gần 30 năm cống hiến cho quân đội và hai năm sau khi nghỉ hưu, ông thấy mình đã “trả hết nợ” chưa. Ông Huấn nói ngay: “Chưa!” Ông không thể nghỉ ngơi khi nghĩ đến đồng đội của cha ông, những người đã nằm xuống để bảo vệ tự do và dân chủ cho miền Nam Việt Nam, những người khoác áo lính VNCH.

Cùng với ông Nguyễn Đạc Thành, cựu Thiếu tá VNCH (hiện 84 tuổi, ở Houston, Texas), ông Huấn đang dốc tâm sức cho việc tìm kiếm hài cốt binh sĩ VNCH và vận động chiến dịch trùng tu Nghĩa trang Quân đội VNCH (hiện được gọi là Nghĩa trang Bình An, ở Dĩ An, Bình Dương). Gần 20 năm kể từ lần đầu tiên (2007) trở về Việt Nam tìm mộ tù cải tạo, hài cốt chiến sĩ VNCH, và xin phép trùng tu Nghĩa trang Quân đội VNCH, ông Nguyễn Đạc Thành vẫn gặp một số khó khăn để thực hiện kế hoạch chỉnh trang toàn bộ và đồng bộ (chứ không phải tự do trùng tu theo cách riêng của từng cá nhân như nhiều năm nay).

Ông Nguyễn Từ Huấn và ông Nguyễn Đạc Thành (ảnh: MK)

Trong cuộc phỏng vấn Đài SBTN năm 2022, ông Nguyễn Đạc Thành cho biết tổ chức VAF (Vietnamese American Foundation) của ông đã trùng tu 147 ngôi mộ cuối cùng của lô E51. Công việc tiếp theo là lô C5. Phần lô D, hiện còn trống, VAF dự tính dựng mộ cho hài cốt những người tù cải tạo và những người lính VNCH mất tích trong chiến tranh… 

Phần mình, ông Huấn đã thực hiện được một số việc. Trong chuyến đi Brisbane (Queensland, Úc) vào Tháng Chín, 2024, ông Huấn đã nói chuyện với cộng đồng người Việt cũng như gặp Chủ tịch Hạ viện Úc Milton Dick và được ông Milton Dick bày tỏ ủng hộ – tương tự sự ủng hộ mà ông Huấn nhận được từ cựu Đại sứ Ted Osius lẫn ông Marc Knapper, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Sau Úc, ông Huấn dự tính đi Canada, Pháp, Đức, Anh…, với cùng một sứ mạng.

Cuộc gặp của tôi với ông Huấn vào một ngày Tháng Chín, 2024 kết thúc vào một buổi chiều. Ở Việt Nam là rạng sáng. Một ngày mới đang bắt đầu. Tại Nghĩa trang Biên Hòa, tên gọi quen thuộc của Nghĩa trang Quân đội VNCH, những tia nắng đầu tiên xuất hiện, sưởi ấm linh hồn những người đã khuất, những đồng đội của cha ông Huấn, những người cần được thắp nhang tử tế như tất cả những người sinh ra trên đất Việt Nam và chết trên quê hương Việt Nam… 

________

Cả ba ông Nguyễn Từ Huấn, ông Lương Xuân Việt (được thăng thiếu tướng năm 2017; nghỉ hưu 2021) và ông Châu Lập Thể (được thăng thiếu tướng năm 2019; nghỉ hưu 2024) đều có ba điểm chung: Sinh trong gia đình sĩ quan VNCH; có ý chí tiến thân mãnh liệt bằng con đường học vấn miệt mài; và đều muốn thể hiện sự tri ân đất nước đã cưu mang các ông bằng cách gia nhập quân đội, ở một quốc gia mà chẳng ai bóp chết cuộc đời các ông chỉ bởi lý lịch gia đình cùng một “bản án” không xét xử với “tội danh” con của “ngụy”.

Không nơi nào trong bất kỳ môi trường nào trên thế giới khắc nghiệt bằng quân đội Mỹ. Để được “gắn sao” cũng khó như “lên trời hái sao”. Ông Huấn cho biết, chỉ khoảng 3% đại tá được thăng chức tướng trong các binh chủng nói chung và tỷ lệ này trong hải quân thậm chí thấp hơn, với vỏn vẹn 1%! “Ứng cử viên” được đề cử phải được điểm trung bình cao từ phiếu “chấm điểm” của các vị tướng khác, với những tiêu chuẩn cực kỳ nghiêm nhặt, từ tinh thần kỷ luật cho đến trách nhiệm và thành tích đạt được. Ứng viên sau đó được một ủy ban độc lập thuộc quân đội xem xét lại quá trình cống hiến trong binh nghiệp, kể cả việc điều tra xem người đề bạt và người được đề cử có bất kỳ ràng buộc cá nhân hoặc quan hệ riêng tư nào dẫn đến thiên vị hay không.

Sau khi trải qua loạt thủ tục minh bạch nhân thân, quân đội đưa hồ sơ lên Ủy ban quân vụ Thượng viện để được xét chuẩn thuận. Quốc hội Mỹ rất khắt khe trong việc phong tướng. Tổng thống không hề có quyền hạn trong việc bổ nhiệm tướng. Quân đội cũng không bao giờ có thể “thuyết phục” Quốc hội phong tướng ào ạt cả. Tướng Huấn cho tôi biết: Không chỉ thành tích cá nhân từ chiến trường và kinh nghiệm, người đáng được gọi là tướng chỉ huy còn phải có một phẩm chất quan trọng: Biết nâng đỡ “đàn em”, huấn luyện và hướng dẫn thuộc cấp hoàn thành nhiệm vụ, để giúp họ có thể trở thành những sĩ quan chỉ huy xứng đáng trong tương lai. Đây là một trong những phẩm chất đạo đức của cấp chỉ huy mà quân đội Mỹ luôn đề cao. Tất cả họ đều phải nỗ lực rất dữ dội và bền bỉ để vượt trội và vượt xa nhiều người khác trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt không có chỗ cho kẻ bất tài tiến thân bằng quan hệ hoặc mánh khóe.

@theNewViet

____________

The Story of Retired Rear Admiral Nguyễn Từ Huấn, a Man Bound by the Words “Việt Nam”

Five years after I wrote an article for VOA about U.S. Navy Rear Admiral Nguyễn Từ Huấn, I met him again one September day in 2024. Admiral Huấn hadn’t changed — still the same modest, unassuming man when he spoke about his life since retiring in 2022. Our conversation once again turned to the same theme: his deep, lifelong debt to the two words Việt Nam.

Rear Admiral Huấn

Fifty years ago, on May 20, 1975, The Daily Oklahoman ran a front-page story by journalist Tom McCarthy about a Vietnamese teenager named Nguyễn Từ Huấn. The article mentioned that the young Huấn might one day become a violinist. But Huấn’s name would later be honored not on a concert stage, but in the U.S. Navy. His military career made him the first Vietnamese American to attain the rank of Rear Admiral in the U.S. Navy.

In 1981, six years after arriving in the United States as a refugee following April 30, 1975, Huấn graduated from Oklahoma State University with a degree in electromechanical engineering. He went on to earn three master’s degrees — from Southern Methodist University, Purdue University, and Carnegie Mellon University (with distinction) — specializing in information systems engineering. He then worked for a Department of Defense agency designing electronic control systems for fighter aircraft.

When the Gulf War broke out in 1991, Huấn enlisted. By 1993, he had become a naval reserve officer, while also working at the Department of Energy. There, he participated in the Superconducting Super Collider project — studying how to accelerate proton beams close to the speed of light so they could collide, providing data to help scientists understand the Big Bang and other cosmic phenomena. Later, he joined General Motors, designing electronic systems for vehicles and developing patents still used by GM today.

In 1993, the Internet barely existed — there were only about 20 websites in the entire U.S. But Huấn was already thinking about how to use networked systems for military operations. His idea won the support of a Rear Admiral, and he was invited to brief Navy leadership at the Pentagon. Few people could imagine what “network warfare” meant at the time. Yet less than ten years later, when the U.S. entered the Second Gulf War in 2003, cyber warfare had become one of the decisive factors in modern combat.

During that period, Major Huấn was deployed to Afghanistan and Iraq, leading technical units tasked with disabling terrorists’ remote-controlled explosive devices. “One of the hardest challenges for me was having to stay one step ahead of the enemy,” he told The New York Times journalist Eric Schmitt on February 6, 2006.

In 2019, at the unveiling of the Lone Sailor statue in Guam — a project Huấn himself initiated in collaboration with the U.S. Navy Memorial — he recalled his refugee days:

“Forty-four years ago, I was one of the refugees — anxious about an uncertain future but profoundly grateful to have arrived here. I still vividly remember the American sailors and Marines at Asan Camp on Guam, working under the scorching sun to build shelters, distribute food and water, and care for everyone with kindness and respect. Those men inspired me to serve in the U.S. Navy.”

1968

Admiral Huấn rarely speaks to the media, not because of arrogance, but because he cannot contain his emotions when recalling the 1968 massacre that took his parents and five siblings. He was only ten years old when he witnessed it. Though he has overcome extraordinary challenges to become who he is today, the horror of that day never leaves him.

Many have retold the story, often with inaccuracies or misplaced focus. The real story lies not in later dramatizations but in those moments of courage — his parents’ steadfastness as communist commandos pointed their rifles at them.

Huấn can never forget the bursts of gunfire cutting down his father, mother, brothers, and baby sister — all murdered during a supposed ceasefire. He remembers his brother’s last breath, his sister’s body torn apart, his mother bleeding for hours before dying. He remembers the communist soldiers drinking beer over the corpses, eating while the wounded groaned beside them.

One commando pointed a gun at Huấn, the only survivor. The boy’s face was covered in blood from a bullet wound in his head, yet his eyes showed no fear. Believing him mortally wounded, the commando spared him a final shot. But he survived.

A Vietnamese Soul

The few hours of that Tet morning in 1968 became a lifelong nightmare. Yet, instead of succumbing to despair when he arrived in America as a penniless refugee, Huấn overcame everything. The tears for his family became strength. The image of his parents’ sacrifice guided him to live with purpose — not as a victim, but as a man carrying a fragment of shrapnel still lodged in his skull.

For Huấn, life has always been about moral duty — to his adoptive uncle and aunt who raised him, and above all, to his late parents. He chose to serve in the U.S. military as a way of repaying the country that gave him freedom, a nation that stood as a beacon of human dignity, liberty, and democracy. But his greatest debt is not to America.

His true debt — heavier and more sacred — is to Việt Nam. It is a moral burden he carries as a vow to honor his father, Colonel Nguyễn Tuấn, former commander of the ARVN Armored School, and to bring peace to his mother’s soul. It is his way of responding to a war that tore apart his homeland, to remind future generations why peace must be protected at all costs.

Unlike the arrogance often seen in communist generals, Admiral Huấn is the embodiment of humility. He never speaks of hatred, even though his trauma could justify it. In person, he is gentle and thoughtful — more like a university professor than a military commander.

Raised by his uncle’s family, Vietnamese Catholics who migrated south in 1954, he was taught discipline and compassion in equal measure. That upbringing, he says, kept him Vietnamese to the core. He still reads Vietnamese books, speaks the language fluently, and tears up at Phạm Duy’s songs about the homeland. He tells his children they must never forget the words Việt Nam.

“A New Debt” – Still, Việt Nam

When I met him again in September 2024, I asked the same question I had asked in 2019: after nearly 30 years of service and two years of retirement, did he feel he had “repaid his debt”?
“Not yet,” he answered immediately.

He cannot rest while thinking of his father’s fallen comrades — ARVN soldiers who died defending freedom in South Việt Nam. Together with former ARVN Captain Nguyễn Đạc Thành, now 84 and living in Houston, Texas, Huấn is dedicating his post-retirement years to locating the remains of ARVN soldiers and restoring the ARVN National Cemetery (now called Bình An Cemetery) in Dĩ An, Bình Dương.

Since his first trip to Việt Nam in 2007, Nguyễn Đạc Thành has faced many obstacles. His organization, the Vietnamese American Foundation (VAF), has restored hundreds of graves — 147 in section E51 as of 2022 — and plans to build memorials for missing soldiers and reeducation camp victims.

Admiral Huấn has been actively supporting the effort internationally. In September 2024, during a trip to Brisbane, Australia, he met with Vietnamese community leaders and Australian House Speaker Milton Dick, who expressed support — as did former U.S. Ambassador Ted Osius and current Ambassador Marc Knapper. He plans to continue his mission in Canada, France, Germany, and the U.K.

Our meeting ended at sunset. In Việt Nam, dawn was breaking. At the Biên Hòa Cemetery — the old name still spoken with reverence — the first rays of sunlight warmed the souls of those who fell, the comrades of Rear Admiral Huấn’s father, men who deserve to be honored like all who were born and died on Vietnamese soil.


Epilogue

Rear Admiral Nguyễn Từ Huấn, Major General Lương Xuân Việt (promoted in 2017, retired 2021), and Major General Châu Lập Thể (promoted in 2019, retired 2024) share three things in common: all were born into ARVN officer families; all advanced through relentless study; and all chose to serve the country that gave them freedom — a nation where no one destroys your life because of your family background or a “crime” called being the child of a “puppet.”

There is no institution as demanding as the U.S. military. Only about 3% of colonels ever become generals, and in the Navy, the rate is just 1%. Candidates must earn high peer evaluations, undergo extensive reviews of their integrity and service, and pass independent investigations to rule out favoritism.

Finally, the nomination is sent to the Senate Armed Services Committee for confirmation. Neither the President nor the Pentagon can simply “appoint” a general. In the U.S., rank must be earned.

As Rear Admiral Huấn told me: “A real commander isn’t measured only by achievements in battle, but by how he mentors those who follow — by lifting others so they too can lead.”

That, perhaps, is why a boy who once survived the nightmare of 1968 grew up to embody not vengeance, but grace — a man still bound, after all these years, by two words that define his life: Việt Nam.

Chuyên đề bookmark

Người Việt hải ngoại

Cùng Tác Giả: Mạnh Kim

Cờ vàng ở hải ngoại

Mạnh Kim (10/09/2025)

Cờ vàng không chỉ là biểu tượng. Giá trị tinh thần lớn nhất của cờ vàng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, sau nửa thế kỷ, là gì?

MC Nam Lộc và chuyến đi đáng nhớ đến Paris

Minh Phượng (09/10/2025)

Vào lúc 1 giờ trưa Chủ Nhật ngày 5 tháng 10, 2025, MC, nhạc sĩ Nam Lộc đã được Hội Vinh Danh Cờ Vàng VNCH Âu Châu nồng nhiệt tiếp đón trong một buổi sinh hoạt cộng đồng và văn hóa có tên là “Người Việt và Quê Hương Thứ…

Đại nhạc hội ‘Cám Ơn Anh’ 2025

Nam Lộc (24/09/2025)

TƯỜNG TRÌNH KẾT QUẢ ĐẠI NHẠC HỘI ‘CÁM ƠN ANH’ BẮC CALIFORNIA, ngày 27-7-2025 Kính thưa quý vị đồng hương, quý chiến hữu cùng quý vị Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: Đại nhạc hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” diễn ra tại Grand Century…

Cờ vàng ở hải ngoại

Mạnh Kim (10/09/2025)

Cờ vàng không chỉ là biểu tượng. Giá trị tinh thần lớn nhất của cờ vàng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, sau nửa thế kỷ, là gì?

Tìm cái gốc đa…

Mạnh Kim (09/09/2025)

Sau nửa thế kỷ sinh sống ở hải ngoại, nhiều người ngày càng lo rằng chúng ta không còn có thể giữ được cái gốc đa… Nhưng điều này có đáng lo như thế hay không?

Bài Ngẫu Nhiên

Né thông tin trong thời đại “bội thực” thông tin

Phạm Nguyễn Thiện Nhân (08/10/2020)

Hàng triệu người mỗi ngày đang vô tình không để mắt đến những kiến thức thật sự có giá trị đến đời sống. Lý do là đa số chúng ta thường xuyên bị sao lãng trong một thế giới với quá nhiều thông tin. Evan William, người đồng sáng lập…

Trung Quốc và chiến dịch ‘xé rách’ đồng đôla

TheNewViet (12/09/2025)

Kể từ tháng 1-2025, đôla Mỹ đã giảm 7% theo thước đo thương mại và ghi nhận khởi đầu tệ nhất cho một năm kể từ 1973. Ngược lại, đồng NDT do Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ đã đạt mức cao nhất kể từ cuối năm 2024…

Sách giáo khoa và cuộc cách mạng khứ hồi

Nguyễn Thị Tịnh Thy (19/09/2025)

Những người từng được thụ hưởng nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa thì hiểu được tính ưu việt, văn minh, tự do, khai phóng của mô hình nhiều SGK…

Tuổi trẻ hoang mang

Nguyễn Tuấn Quỳnh (07/08/2020)

Có một buổi sáng, cô con gái lúc đó đang học lớp 6 của tôi không chịu đến trường. Thuyết phục bằng mọi cách nhưng con vẫn nhất quyết đòi ở nhà. Lý do con đưa ra là không biết học để làm gì. Tất nhiên, bằng sự giải thích…

Làm thế nào để đánh giá một cách công bằng?

Phạm Nguyễn Thiện Nhân (13/08/2020)

Dựa theo một khảo sát ý kiến của tạp chí Fortune dành cho 1.000 công ty hàng đầu nước Mỹ: 66% nhân viên không hài lòng với kết quả đánh giá năng suất lao động của họ, 65% nhân viên tin rằng kết quả mà họ nhận được hoàn toàn…