Nhớ lại sau 40 năm ra tù, 30/10/1985 – 30/10/2025
Ngày 30/10/1985 – Trại cải tạo Thanh Cẩm, Cẩm Thủy , Thanh Hoá
Trước đó khoảng nửa tháng, một buổi sáng trại viên tập hợp trước khi đi lao động, tôi chuẩn bị lên đọc báo Nhân Dân như nhiệm vụ thường ngày của người “phụ trách văn hoá” trong “Ban đại diện tù cải tạo”, thì Giám thị trại xuất hiện, ra lệnh cho tất cả trại viên là sĩ quan công chức Sài Gòn về lán thu xếp nội vụ để… được về nhà!
Sau khi về lại xã hội, tôi mới biết đó là đợt trả tự do cuối cùng cho sĩ quan công chức cao cấp Sài Gòn gồm khoảng 60.000 người, cũng là lúc rục rịch cho đường lối “Đổi mới” năm 1986 khi đất nước sắp lâm vào đường cùng về kinh tế!
Tiếng xôn xao náo động trong ít giây, rồi ào ào những con người mừng rỡ chạy rất nhanh về các lán. Tôi phải đi kiểm tra vệ sinh các lán tù hình sự, không được chứng kiến cảnh họ ra về như thế nào. Nhưng tối hôm ấy, trong lán “chính trị Bắc”, một không khí u trầm khác hẳn ngày thường. Mọi người, trong đó có tôi, đều thao thức: Không biết bao giờ đến lượt mình?
Khoảng nửa tháng sau, đúng ngày 30/10/1985, buổi sáng trại viên tập trung trước giờ lao động, tôi chuẩn bị đọc báo Nhân Dân thì bỗng nghe tiếng loa: “Hoàng Thuỵ Hưng về lán thu xếp nội vụ!” Choáng! Vứt ngay tờ báo xuống đất và bỏ chạy một hơi về lán!
Lên phòng trực ban, nhận tờ “Giấy ra trại”, chắc là tay có run run! Giấy ghi:
“… Thi hành án văn, quyết định tha số 185 ngày 7 tháng 10 năm 85… Nay cấp giấy tha cho anh, chị có tên sau đây: Hoàng Thuỵ Hưng sinh năm 1942… Can tội: Tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ [!] Bị bắt ngày 20/8/82 [ngày bị bắt chính xác là 17/8/1982] Án phạt: 3 năm TTCT Theo quyết định, án văn số 230 ngày 30 tháng 1 năm 84 của Bộ nội vụ…”


Thắc mắc đầu tiên của tôi khi đọc tờ giấy này: Tại sao họ chuyển tôi từ tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động” trong lệnh bắt thành “tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ” trong lệnh tha! Hay là họ không muốn lan truyền một bằng chứng là Việt Nam có tù nhân chính trị (rõ ràng với hai chữ “phản động”)!
Suy nghĩ này được củng cố khi tôi trò chuyện với các anh bị bắt và tập trung cải tạo trong vụ án “xét lại” những năm 1960: khi ra trại, các anh thậm chí không được trao cho một giấy tờ gì giắt lưng! Bác sĩ nha khoa Phan Thế Vấn, một nạn nhân trong vụ này, kể với tôi rằng: Sau 1975, anh vào Sài Gòn; được người bạn lúc đó làm giám đốc Sở Y tế (bác sĩ Dương Quang Trung) đưa vào làm việc trong ngành, nhưng đến lúc khai lý lịch thì không ai chứng nhận cho thời gian năm năm đi cải tạo và cũng không có giấy tờ gì để chứng minh, như vậy bị coi là “lý lịch không rõ ràng”, nên không được “tổ chức” chấp nhận!
Điều nữa đáng ghi nhận: theo đúng “luật”, án phạt của tôi là “ba năm”, thì đúng ra tôi phải được về vào ngày 17 hoặc 20/8/1985, nhưng hệ thống hành chính quan liêu đã khiến tôi phải chịu thêm hơn ba tháng trong tù, tức hơn 39 tháng thay vì 36 tháng!
Viên đại uý phụ trách giáo dục của trại Thanh Cẩm nguyên là một giáo viên Văn (anh đã rất tử tế với tôi trong thời gian tôi ở trại; đáng tiếc là tôi không nhớ được tên anh). Anh trao cho tôi tờ “giấy ra trại” và mời tôi về nhà ăn bữa cơm trưa trước khi về Hà Nội.
Chuyến xe ca đưa tôi từ thị trấn Cẩm Thuỷ về đến nhà ga Thanh Hoá thì trời đã tối. Không hiểu sao một bản năng xui tôi chen vào giữa đám trẻ bụi đời trong sân ga. Hình như dáng vẻ nhếch nhác, khổ sở của một thằng tù thích hợp hơn với đám trẻ ấy hơn là với những người đang đợi chuyến tàu sáng mai trong nhà ga! Và thật kỳ lạ! Đêm hôm ấy tôi đã ngủ ngon hơn bất kỳ đêm nào trong suốt 39 tháng qua!
Chuyến tàu sáng 31/10/1985 từ Thanh Hoá mãi tới tối mới đưa tôi về đến Hà Nội!

Xẩm tối 31/10/1985, tôi lặng lẽ tự mở cửa căn phòng lớn của bố tôi trên gác hai ngôi nhà tổ phụ (14 Đường Thành Hà Nội). Thật bất ngờ: cả nhà đang ngồi quanh chiếc bàn ăn lớn gỗ lim gia truyền nạm đồng 100 chữ “Phúc”: bố và tất cả các anh chị em, các cháu trai cháu gái tụ họp ăn mừng sinh nhật lần thứ 83 của bố (31/10/1902-1985)! Vợ tôi từ Sài Gòn ra cũng có mặt, chắc em ra để chuẩn bị lên trại thăm tôi lần thứ hai!
(Thật tình cờ, tôi viết bài này cũng đúng vào sinh nhật thứ 123 của bố và lúc mình sắp tròn 83 tuổi Tây (24/11/1942-2025).
Ngày hôm trước, 30/10/1985, là ngày kết thúc cuộc đời tù đày “lãng xẹt” của tôi sau hơn 39 tháng, qua ba cơ sở giam giữ của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Sau khi được trả tự do, tôi ở lại Hà Nội cùng vợ ít ngày trước khi trở về Sài Gòn. Việc đầu tiên là đi thăm và cảm ơn cơ quan cũ đã dành cho mình những tình cảm đặc biệt khi trong thời gian mình gặp nạn: Báo Người Giáo viên Nhân dân và Bộ Giáo dục.
Chuyện được coi là hy hữu trong thời “toàn trị”: Báo Người Giáo viên Nhân dân đã trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi trong suốt hai năm tôi ở tù (người đem quà cho tôi là Thư ký công đoàn cơ quan, chị Trần Thị Nhâm), bất chấp lời phàn nàn của Công an. Thậm chí CA gửi đến báo lệnh tập trung cải tạo đối với tôi (23/1/1984), mà đến 20/10/1984 Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Và còn cho tôi “được trợ cấp hai tháng lương kể cả các khoản phụ cấp nếu có”.
Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang (Nguyễn Trường Thuỵ), Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Tòa soạn báo NGVND. Anh kể với tôi: Công an trách là họ đang “đấu tranh” với tôi mà sao báo lại ưu ái, khiến công việc của họ gặp khó khăn. Anh đã trả lời: “Chúng tôi không biết anh Hưng bị bắt vì tội gì, nhưng ở cơ quan anh là một người gương mẫu, được anh chị em trong cơ quan quí mến”. Hai vợ chồng nhà báo Trường Giang đến chơi vài năm sau khi tôi ra tù.
Đến Bộ Giáo dục, tôi tìm gặp GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng, người thầy dạy tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội khi mới tốt nghiệp Phó Tiến sĩ ở Liên Xô về. Tôi là cán sự bộ môn Lý luận văn học của thầy (và còn là cán sự bộ môn của vài môn khác: Văn học nước ngoài, Ngôn ngữ học, Văn học Việt Nam hiện đại… Lý do là trình độ của sinh viên Văn thời đó rất không đồng đều, gần nửa là cựu giáo viên cấp hai vùng nông thôn, miền núi, không có điều kiện đọc sách, mở mang kiến thức. Tôi thường phải tập trung lớp vào buổi tối, “giảng” lại những bài giảng của các thầy trên hội trường).
Thầy Hạnh rất quí tôi, khi tôi tốt nghiệp thầy đã đề nghị giữ tôi lại làm giảng viên của trường nhưng ông Bí thư Chi bộ dạy Văn học dân gian Đỗ Bình Trị phản đối vì cho là tôi có “lý lịch xấu”! Thật ra tôi biết ông ngầm ghét tôi ngay từ năm thứ nhất, khi tôi được ông chỉ định lên thực tập giảng văn bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa…” nhưng đã soạn một bài khác hẳn với những ý mà ông đã dạy trước đó!
Thầy Hạnh bất ngờ và vui mừng khi tôi đến chào. Sau một hồi trò chuyện, thầy bất ngờ đưa ra một đề nghị: tôi về Bộ làm chuyên viên theo dõi chuyên môn ở trường phổ thông! Nhưng, với một “tiền sự” về văn chương, tôi không thể chuyên trách môn Văn, mà sẽ theo dõi môn… Thể dục!
Tôi cảm ơn thầy, nhưng tỏ ý muốn về sống trở lại ở Sài Gòn với vợ con (và chắc chắn Sài Gòn là nơi dễ sống hơn Hà Nội, nhất là với một người có thân phận cựu tù nhân như tôi – tất nhiên đó là điều tôi không nói ra).
Trong những người bạn thân quý mà tôi gặp lại ngay sau khi ra tù là anh Nguyễn Kiến Giang, cựu tù nhân vụ án “Xét lại”, vợ chồng nhạc sĩ Đỗ Cường Chi, người “môi giới” cuộc gặp gỡ giữa tôi và người vợ tương lai.
Nếu ở Hà Nội, có mấy người bạn văn chương thân thiết không giấu nổi vẻ mặt sửng sốt và lúng túng, thậm chí hơi sợ hãi khi tôi bước vào cửa (một sự thật mà tôi đã đưa vào bài thơ “Người về”: “Người về từ cõi ấy/ Bước vào cửa người quen tái mặt”) thì ở Sài Gòn có khác.
Tôi nhớ một hôm đang đạp xe trên phố thì gặp nhà văn Nguyễn Khải đạp ngược chiều. Anh phanh ngay xe lại và giơ tay chào tôi. Rồi tiến đến vui vẻ chúc mừng tôi đã trở về! Cũng có lần gặp thầy dạy cũ ở Đại học Sư phạm Hà Nội, thầy Trần Thanh Đạm lúc đó là Hiệu trưởng ĐHSP TPHCM. Thầy cũng dừng xe đạp thân ái hỏi thăm và chân tình khuyên: “Cậu nên đi thanh niên xung phong một thời gian” (ý là để rèn luyện tư tưởng thêm, hoặc là để có công việc sinh sống?).

Trong các bạn văn nghệ, thì Trần Hoài Dương (NXB Trẻ) và vợ chồng Nhật Tuấn (NXB Văn học) – Thu Hồng (báo Thể Thao Văn hoá) là những người đầu tiên đến thăm và cho quà! Đó cũng là hai người bạn tận tình đi lại giúp đỡ vợ tôi trong thời gian tôi đi tù. Trần Hoài Dương là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi, quen và thân thiết với tôi từ những năm 1960 khi chúng tôi cùng là cộng tác viên của nhà thơ Phạm Hổ ở báo Văn Nghệ (anh Phạm Hổ phụ trách trang Thơ của báo, đồng thời là nhà thơ nổi tiếng về mảnh thơ thiếu nhi). Trần Hoài Dương là con người sống rất lý tưởng. Sau này, Trần Hoài Dương làm biên tập viên của tạp chí Cộng Sản, là người dìu dắt Nguyễn Phú Trọng trong thời gian người này tập sự. Cuối đời, anh chán ngán sự đời, xa vợ con, sống cô độc và chết một mình không ai biết sau một cơn say rượu bia.
Tôi được an ủi khi biết rằng trong thời gian tôi đi tù, gia đình tôi đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của ông tổ trưởng dân phố, của các thầy cô giáo dạy cháu Hoàng Ly. Anh cảnh sát khu vực (đến tận hôm nay vợ tôi vẫn nhớ tên anh, anh Khen) hôm đưa nhóm công an Hà Nội đến khám nhà tôi, đã nhắc khéo họ là “em trai anh Hưng là liệt sĩ chống Mỹ”.
Các thầy cô giáo dạy cháu Ly ở trường cấp một Ngô Sĩ Liên, những chiều tan học mà vợ tôi đi làm ăn chưa kịp tới đón, đã tự ý đèo cháu về nhà. Vợ tôi bơ vơ và ngây thơ bước chân bươn chải vào chợ đời được nhiều người cảm thương và giúp đỡ vô tư. Em được nhà văn Nhật Tuấn và nhà văn Hoàng Lại Giang nhận vào làm công việc hành chính ở Chi nhánh NXB Văn học tại TPHCM.
Và lúc này mới được nghe vợ kể một ít về những gian lao vất vả mà em đã phải lặng lẽ vượt qua trong vài ngàn ngày đêm một mình cáng đáng gánh nặng nuôi chồng tù, con dại, và bà mẹ chồng già yếu; những thách thức trong công việc và quan hệ ở nơi làm việc mới. Tính em kín đáo, có những chuyện buồn mà thậm chí mãi đến 40 năm sau, khi tôi viết những dòng này, em mới kể cho nghe.
Tâm sự đôi lứa nhiều năm sau đã được ghi lại phần nào sau một đêm mưa lớn trong bài thơ được nhiều người chia sẻ:
Mùi mưa hay bài thơ của M.
Tất cả nước mắt loài người bao vây nhà ta
Nằm bên anh em kể câu chuyện buồn
Chôn sâu trong lòng giờ mới nói ra
Gợi ý của trận mưa chưa từng thấy
Đã một nghìn đêm mưa trắng đêm
Điên cuồng nhớ mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác
Anh đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ còn mưa mùi nước mắt đêm
Em còn yêu anh không yêu đến đâu giận ghét đến đâu
Mười lăm năm lòng mình chưa hiểu hết
Mưa mưa ngập tầng trệt
Đưa nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước nằm nghe mưa rồi chết
Đêm 25/6/1992
…………………..

Sau vài ngày nghỉ ngơi, bắt đầu lo tính chuyện sinh sống. Khi bàn bạc với vợ, tôi nêu ra ý tưởng bán phở gánh như lời khuyên của ông bạn trong tù, nhưng vợ tôi kiên quyết gạt đi, nói không thể phí phạm vốn kiến thức tôi đã tích lũy được bao nhiêu năm trời!
Có một chuyện vui đáng kể lại xung quanh chuyện sinh sống của tôi lúc ấy. Về nhà chẳng bao lâu thì có cô công an tên Lạng đến chơi. Tôi đã gặp cô ở nhà anh cả tôi ở Hà Nội sau khi ra tù, sau mới biết cô là sĩ quan an ninh theo dõi y tế! Cô đề nghị tôi “hợp tác” với an ninh, đổi lại tôi sẽ được giao cho một kiosque ở đường Nguyễn Huệ để buôn bán phim, giấy ảnh! Tôi hỏi: “Hợp tác” cụ thể là làm gì? Nếu là cho biết ý kiến của mình về những vấn đề văn hoá, văn nghệ mà an ninh quan tâm thì tôi sẵn sàng! Nhưng cô nói: Cụ thể là như thế này: Anh là người giao du thân mật với nhà thơ Nguyễn Duy
(Đúng thế! Hai chúng tôi đều từng được giải thưởng Thơ của báo Văn Nghệ, anh đã đến chơi với tôi ở Hà Nội, và vào Sài Gòn thì tôi rất hay lui tới nhà anh ở nhà tập thể văn nghệ sĩ đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa; chúng tôi quí nhau, thậm chí tôi còn rủ anh… buôn chung, có lần còn cùng mất tiền toi vì bị lừa mua “bạch kim” từ xác máy bay!).

Cô bảo: Gần đây Nguyễn Duy hay tiếp khách là Việt kiều ở trụ sở chi nhánh của báo Văn Nghệ trên đường Đồng Khởi mà Duy là trưởng chi nhánh, chúng tôi biết chỉ có anh có thể tham dự những buổi như thế… Tôi lập tức đáp thẳng cánh: “Xin lỗi! Gia tộc tôi không có ai táng vào mả chó!” Từ đó không còn gặp lại cô, nhưng vài năm sau thì đọc báo thấy tin cô cùng vài đồng sự bị bắt vì một vụ làm ăn phi pháp gì đó!
(Không “dụ” được tôi, sau đó an ninh đã có được “cộng tác viên” là một nhà nghiên cứu văn học làm hợp đồng ở chi nhánh báo Văn Nghệ. Nhưng bị phát hiện, anh này được nghỉ việc. Khi biết chuyện tôi đã từng từ chối “lời đề nghị khiếm nhã” của an ninh, Nguyễn Duy càng quý mến tôi).
__________________
May mắn là lúc ấy, báo chí Việt Nam bắt đầu “mở ra” khi rục rịch công cuộc Đổi mới! Một số báo, tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh được bán trên lề đường Đồng Khởi (chắc là hàng “xách tay” của du khách nước ngoài). Tôi mua và tìm những bài thích hợp để dịch và gửi cho mấy tờ báo ở Sài Gòn. Sau này, khi có internet, công việc dịch thuật các bài vở mới trên các báo mạng để bán cho các báo đã là phần quan trọng trong thu nhập thường xuyên của tôi.
Cuốn sách dịch đầu tiên được xuất bản của tôi là cuốn “Mowgli người sói” dịch từ hai tập Jungle Book của Rudyard Kipling, do bạn tôi là Trần Hoài Dương của NXB Trẻ đặt hàng năm 1987. Đó là kết quả không thể tốt đẹp hơn của thời gian tự học tiếng Anh trong tù (học bằng một cuốn sách ngữ pháp tiếng Anh, một cuốn từ điển Anh-Pháp-Pháp-Anh, những tờ báo Moscow News của Liên Xô; tôi lần mò đọc và dịch không sót một chữ, say mê quên hết thân phận “tù”). Sách được tái bản liên tục đến lần thứ ba. Nó cũng mở đầu cho nghề dịch và xuất bản sách (tự mua giấy phép, tự in, tự phát hành) kéo dài nhiều năm sau, cũng cho tôi một khoản thu nhập thường xuyên quan trọng.
Khoảng đầu năm 1986, tôi được bạn học cũ là Đặng Ngọc Long, một dịch giả tiếng Nga, giới thiệu với anh Nguyễn Minh Đức, trưởng phòng Phát minh Sáng chế của Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật TPHCM. Anh là con người rất năng động và cởi mở, đã cho xuất bản một tập san mang tên “Sáng tạo” để công bố các phát minh sáng chế nhưng cũng mở rộng ra chân trời kiến thức khoa học kỹ thuật.
Anh nhận ngay tôi vào làm biên tập viên, và chẳng bao lâu thì phụ trách công việc thư ký toà soạn. Công việc này khiến tôi gắn bó với hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên, người mà tôi mời trình bày tập san, và từ đó học được rất nhiều kỹ năng của nghề báo từ biên tập đến sửa morasse, theo dõi in ấn! Tờ tập san này có lẽ là sản phẩm báo chí duy nhất không được bao cấp mà tự phát hành được ra thị trường.

Anh Biên nguyên là Giám đốc Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VNCH, đã được đào tạo nghề mỹ thuật ấn loát ở Nhật Bản. Anh chính là người đã cùng người em trai là tiến sĩ kinh tế Hoàng Ngọc Nguyên thiết kế ra tờ báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm năm 1986.
Hai năm làm tập san “Sáng tạo” sau khi ra tù rất có ý nghĩa với tôi. Nó là bước đầu tiên tích luỹ kinh nghiệm cho “nghiệp” làm báo thực sự của tôi từ lúc ấy đến cuối đời, từ tập san Seaprodex rồi báo Lao Động thời Đổi mới đến các báo mạng “lề trái” talawas, bauxite Vietnam, vanviet…
Điều khá thú vị là hai tờ Seaprodex của Tổng công ty Xuất nhập khâu Thuỷ sản và Lao Động Chủ Nhật của Tổng Liên đoàn Lao Động đã mời tôi về làm việc có phần vì các vị lãnh đạo ngấm ngầm “khoái” cái tiền sử tù oan của tôi! (Phó Tổng giám đốc Seaprodex là Trương Thanh Hà nguyên trong Ban Tuyên huấn Khu V thời chống Mỹ; Tống Văn Công – tổng biên tập báo Lao Động, Hữu Tính – phụ trách cơ quan thường trú báo Lao Động tại TPHCM) .
Họ nhanh chóng trao cho tôi trọng trách: Thư ký toà soạn rồi Phó TBT thường trực có toàn quyền của tạp chí Seaprodex, rồi sau đó về phụ trách trang rồi làm Trưởng ban Văn hoá của báo Lao Động!

Có chuyện thú vị khi tôi tới gặp anh Hà Seaprodex để anh “phỏng vấn” theo lời giới thiệu của anh Thanh, người phụ trách tạp chí Seaprodex. Anh đề nghị tôi đọc một số báo và góp ý. Đọc nhanh, tôi nói thẳng: “Đây là kiểu báo bao cấp, lưu hành nội bộ, rất yếu về nghiệp vụ”. Anh ngạc nhiên: “Tôi chưa thấy ai đi xin việc mà nói thẳng như anh!”
Anh tỏ ra khoái chí và tuyên bố nhận ngay tôi về báo. “Nhưng có cái hơi khó nghĩ: dù sao anh cũng bị coi như bắt đầu vào biên chế, vậy không biết nên trả lương anh sao cho phù hợp”. Tôi đáp: “Các anh muốn sử dụng năng lực của tôi đến mức nào thì trả lương mức ấy!”
Anh Hà lại một lần nữa ngạc nhiên (chắc anh chưa từng thấy ai dám ăn nói như thế với lãnh đạo một công ty giàu có, quyền lực lớn hàng nhất nước! Seaprodex lúc đó là tổng công ty độc quyền xuất nhập khẩu mọi mặt hàng, không riêng thuỷ sản). Anh bỏ sang phòng kế toán hội ý, ít phút sau quay lại nói: “Thôi trước mắt anh vui lòng nhận mức lương chuyên viên một vậy nhé!” (cấp chuyên viên là trên sáu cấp cán sự, người tốt nghiệp đại học được hưởng 85% mức lương cán sự ba).
Tôi đã không phụ lòng anh! Nhờ sự cộng tác hiệu quả của anh em Hoàng Ngọc Biên (trình bày), Hoàng Ngọc Nguyên (chủ bút), tôi đã biến tờ tạp chí ngành lưu hành nội bộ thành tờ tạp chí bán chạy trên thị trường!
Ngựa biển là tập thơ đầu tiên của tôi sau khi ra tù được xuất bản vào năm 1988, bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị CA tịch thu năm 1982. Hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên đã thiết kế tập thơ rất công phu. Anh cho biết đã phác thảo 40 lần hình con ngựa chồm lên trên sóng mới có được tấm hình ưng ý để làm bìa sách.
Năm 2017 khi tôi sang Mỹ, đến thăm anh ở San Jose, anh khoe bức vẽ được anh mang sang bày trang trọng trên bàn làm việc. Đó là tập thơ “ngoài luồng” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau “Đổi mới”, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Khi an ninh biết tin về việc tôi đăng ký xuất bản, đòi anh cho xem bản thảo, anh đã từ chối và nói: “Là giám đốc NXB, tôi có quyền quyết định. Sau khi sách in ra, các anh tha hồ có ý kiến”. Ngựa biển đã trở thành một hiện tượng xuất bản hồi ấy, nó được “đánh hội đồng” trên hầu hết các tờ báo, kể cả tạp chí Cộng Sản! Nhưng nhờ thế mà bán hết veo 2.000 bản.

Từ đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Nhà thơ Ngô Văn Phú, Giám đốc NXB Hội Nhà văn không dám cho in Ác mộng.
Ông bảo: “Tập thơ hay quá nhưng lúc này chưa in được”. Sau khi về hưu, ông đã viết một bài chân thành khen nó. Tuy nhiên một số bài trong đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn hoá-Thông tin. Khi gửi cho anh bản thảo tập Người đi tìm mặt (1994), tôi có viết thư nhắc anh: “Nếu thấy bài nào khó anh cứ bỏ đi”. Anh trả lời ngay: “Không việc gì phải bỏ!” và anh cho in hết! Anh đã bị an ninh làm khó, may mà thân thiết với bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm và cũng phải… “chạy” thật lực mới thoát nạn.
An ninh cũng đến làm việc với ông Nguyễn Văn Tư, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao Động (cơ quan chủ quản báo Lao Động); ông Tư gọi anh Tống Văn Công – tổng biên tập báo, hạch: “Tay này mà anh để làm Trưởng ban Văn hoá của báo?”. Anh Công ngại không cho tôi biết, mà “tâm sự” với Trần Trung Chính, con rể anh Nguyễn Kiến Giang, người mà tôi giới thiệu về báo. Nghe Chính nói lại, ngay lập tức tôi viết đơn xin từ nhiệm để tránh rắc rối cho báo! Lá đơn đột ngột khiến Ban Biên tập lúng túng, mãi đến sáu tháng sau mới tìm được người thay tôi!
Trong những bài thơ tù, đặc biệt là bài Người về đã có tác động mạnh mẽ đến giới làm thơ và công chúng thơ. Còn nhớ, nhạc sĩ Trần Tiến đọc bài thơ này giữa sân báo Lao Động đã bật ngửa sững sờ! Nhà thơ Thanh Tùng nói với các bạn thơ Hải Phòng: “Đây là bài thơ có tầm quốc tế!”. Năm 2000, đến chơi hoạ sĩ Lê Bá Đảng ở Paris, tôi đọc cho ông nghe. Ông kêu lên: “Tôi sẽ vẽ một tấm carte in bài thơ này!”
Người về
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình một cái vỗ vai
Tôi viết bài này năm 1992, tức là bảy năm sau khi ra tù. Lúc đó tôi cũng đã quen với vị thế nhà báo của mình đã được phục hồi. Nhưng trong một buổi tiệc ở Hội Mỹ thuật TPHCM, có một người lạ mặt đến gần tôi, nhìn tôi trừng trừng và hỏi: “Anh từ nơi ấy trở về chứ gì?” Rồi bỏ đi. Tôi đứng sững như trời trồng, và lặng lẽ ra về. Sự việc ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy. Nó làm tôi nhận thức được một thân phận khác của mình trong xã hội. Vài ngày sau thì bài thơ ra đời.
Bài thơ này được đưa vào những tuyển thơ quan trọng như, “100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX” của NXB Giáo Dục, các tuyển thơ của NXB Hội Nhà Văn; được dịch và đăng trên nhiều tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng; có không ít nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt Nam và Mỹ đã viết bài bình luận về nó.

Một số bài khác trong Ác mộng được dịch và in ở nhiều tạp chí văn chương Pháp, Mỹ. Đến năm 2006, lần đầu tiên cả 30 bài Ác mộng được công bố trên báo mạng talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Đức, rồi năm 2018 được in song ngữ ở NXB Văn học ở Hoa Kỳ với lời bình thay lời tựa của nhà thơ Ellen Bass, thành viên Ban Tư vấn Hội Các Nhà Thơ Hoa Kỳ (Chancellor of the Academy of American Poets) và những nhận định của các nhà thơ Việt Nam và Mỹ, Pháp như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Allen Ginsberg, Robert Creeley, Marie Étienne… (bản tiếng Anh của Trịnh Y Thư ở Mỹ và Nguyễn Đức Tùng ở Canada).
Bìa tập thơ rất ấn tượng: theo gợi ý của tôi, nhà thiết kế bìa Bùi Nam lấy tấm ảnh mà hoạ sĩ Hà Thế Hiển, bạn học Mỹ thuật của con gái tôi – Hoàng Ly, chụp cảnh tôi ngồi đọc thơ trong bóng đêm.
Đó là cảnh trong đêm thơ “Cha và con và thơ” của hai bố con tôi ở Viện Pháp Hà Nội năm 2008, tiết mục trình diễn bài “Một ngày” đã gây ấn tượng rất mạnh mẽ cho khán giả: con gái tôi đã đạo diễn tắt hết đèn, âm thanh, tôi ngồi giữa sân khấu, trên một chiếc ghế, tay cầm tờ giấy in bài thơ; con gái tôi đứng bên ngoài rèm, chiếu đèn pin vào tờ giấy. Cả khán phòng gần 200 người im phăng phắc nghe bài thơ! Nhiều tờ báo chính thống đã tường thuật đêm thơ ấy một cách thật ưu ái! Anh đã rất thông minh thể hiện tên tập thơ song ngữ “Ác mộng-Nightmares” như một cây thập giá!
Riêng có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ.
Năm 1992 (1993?), một cựu học sinh người Tàu của bạn tôi, nhà thơ-nhà giáo Trịnh Hoài Giang ở trường Trung học Trung Hoa Hải Phòng, nay là chủ một công ty Du lịch ở Quảng Đông mời tôi đi một chuyến. Mặc dù đã được Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam ký công văn cho đi, nhưng Cục An ninh Tư tưởng-văn hoá đã bác bỏ.
Sau việc này, anh Hồng Đăng, Phó TBT thường trực báo Lao Động, bạn học cũ của Trương Hoà Bình lúc đó là Cục phó Cục A25, đã gợi ý sắp xếp cho tôi gặp Bình “giải toả chuyện cũ” để có thể xuất ngoại, nhưng tôi đáp: “Tôi không có việc gì để gặp họ, trừ khi họ muốn gặp tôi để xin lỗi về việc đã bắt và giam giữ tôi oan uổng”.
Đến năm 1999 tôi đã có cơ hội ra nước ngoài đọc thơ, nhưng đó là một “quả pháo xịt”: Chương trình giới thiệu văn học đương đại Việt Nam do “Nhà Văn hoá Thế giới” Berlin tổ chức khá công phu trong khuôn khổ “Năm Văn hoá Việt Nam”, đã trân trọng giới thiệu một chùm thơ tôi trong brochure, nhưng các nhà văn trong nước được mời không ai được phép xuất cảnh.
Tôi là người đầu tiên trong số các nhà văn được mời dịp ấy bị từ chối xuất ngoại. Theo lời thuật của TBT báo Lao Động Phạm Huy Hoàn, thì Trưởng ban Tuyên huấn Hữu Thọ đã khiển trách anh vì tội ký cho tôi đi, với lý do: sứ quán Việt Nam tại Đức báo về: “Tụi nhà văn phản động trong nước và hải ngoại gặp nhau ở đây sẽ nhân cơ hội ra một tuyên bố về nhân quyền”. Anh giở sổ tay cho tôi đọc nguyên văn lời khiển trách của ông Hữu Thọ, nhưng dặn tôi không được cho ai biết!
Sau này được biết buổi giới thiệu thơ tôi tại Berlin vẫn được tiến hành, bản tiếng Việt do anh Trương Hồng Quang, Tiến sĩ văn học, đọc… giùm tác giả, một bạn người Đức đọc bản dịch tiếng Đức của chị Thái Kim Lan.
Mãi đến năm 2000, tôi được Bộ Văn hóa Truyền thông Pháp mời sang giao lưu (dịch tác phẩm văn học). Nhờ nhà báo Thu Hồng (báo Thể Thao-Văn hoá, vợ cũ của nhà văn Nhật Tuấn) bảo lãnh trực tiếp với ông Thiếu tướng Nguyễn Văn Hưởng Tổng cục trưởng An ninh (sau là Thượng tướng Thứ trưởng đầy quyền lực), tôi mới được ông đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào.
Trong buổi tiếp tôi khá lịch sự tại Văn phòng Bộ Công an, ông nói: “Tôi đã nhiều lần nói với A25 là các anh không biết làm việc với trí thức!” Khi tôi khẳng định “tôi là trí thức độc lập” thì ông nói: “Trí thức thì phải độc lập mới là trí thức chứ! Đi giao lưu văn hoá thì anh đi là đúng rồi, chả lẽ cử nông dân đi?”
Ông nói thêm: “Tôi biết anh sẽ thăm các bạn mình ở bên đó (ý nói các anh chị nhà văn Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, các nhà báo Thuỵ Khuê, Bạch Thái Quốc…), tôi không dám dặn dò gì, chỉ nhắc anh đừng để bọn xấu lợi dụng bôi nhọ tên tuổi anh và đừng làm gì ảnh hưởng đến tôi là người bảo lãnh cho anh đi”.
Kể từ đó, tôi liên tục có những chuyến đi giao lưu văn học ở Pháp, Đức, Mỹ. Điều đáng nói là: ở nước ngoài, tôi quan hệ thoải mái với các trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo; thoải mái phát biểu suy nghĩ của mình về các vấn đề của đất nước; trả lời phỏng vấn các đài phát thanh… nhưng chưa gặp rắc rối gì với an ninh Việt Nam khi trở về nước. Có lẽ vì tôi luôn nói thật lòng, và giữ góc nhìn khách quan, tỉnh táo trước những cái “oái oăm” của lịch sử hiện đại nước mình, tuy không né tránh việc phản biện những cái sai, bất cập của nhà nước!
____________________






MẤY CHUYỆN THÚ VỊ VỀ “HẬU” VỤ ÁN “VỀ KINH BẮC”
Năm 2003, khi tôi về hưu tại báo Lao Động, do khiếu nại của tôi, báo Lao Động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt (quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn).
Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được trả lại.
Kiến nghị bị từ chối. Tôi gửi kiến nghị cho các bạn là nhà văn Lê Lựu, nhà quay phim Kiều Thẩm từng “lăng xê” cô đội trưởng du kích bảo vệ cầu Hàm Rồng là Nguyễn Thị Hằng hiện là Bộ trưởng Bộ Lao Động TB và XH, nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga – TBT Báo Người Lao Động và đại biểu Quốc hội, vợ người bạn tôi là nhà báo Nguyễn Quang Thọ, kèm theo lời doạ “sẽ biểu tình ngồi trước Quốc hội nếu không được giải quyết”.
Vừa lúc bà Hằng vào Sài Gòn, chị Hằng Nga bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà trong một bữa ăn. Bà hỏi: “Ông Hoàng Hưng có án không?” (tức là bị toà xử án). Trả lời: “Không, bị tập trung cải tạo”. Thế là bà thay đổi ngay quyết định, phá lệ! Và tôi được hưởng đủ lương hưu đúng theo thời gian làm việc (từ 1965).

Năm 2002, sinh nhật thứ 80 nhà thơ Hoàng Cầm, vài đứa em thân thiết đến mừng anh, có cả tướng Phạm Chuyên, Giám đốc Sở Công an Hà Nội. Ông ta nói: “Khi nhận chức ở Hà Nội, tôi đọc hồ sơ vụ “Về Kinh Bắc”, thấy sao mà ấu trĩ quá!”. Tôi bèn nói: “Vậy thì anh cho tôi xin lại tập bản thảo mà anh Hoàng Cầm chép tặng tôi đi.” Ông hứa sẽ tìm, nhưng ít lâu sau nhắn qua một nhà báo ở báo Lao Động rằng tập bản thảo đã bị thất lạc.
Năm 2012, tôi được biết một nhà sưu tập sách ở Sài Gòn đã mua được tập “Về Kinh Bắc” mà Hoàng Cầm chép tặng tôi (tang vật chính của vụ án 30 năm trước đó). Và anh đã scan cho tôi, một bản scan rất đẹp, rõ cả chữ ký xác nhận từng trang của tôi, đủ cả mấy hình bìa của Văn Cao, Trần Thiếu Bảo, chỉ thiếu mấy bức phụ bản của Bùi Xuân Phái!
Năm 2003, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội, tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh Hoàng Phước Thuận, viên sĩ quan CA trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ “Về Kinh Bắc”. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng với nhau. Sau Đổi mới, thì ông là một cộng tác viên của báo Lao Động. Nay ông tự giới thiệu là Cục phó Cục chống khủng bố. Tôi không nhận ra ông (phương phi hẳn ra), ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, báo chí, rồi bỗng bảo tôi thế này: “Tập thơ ‘Về Kinh Bắc’ hay thật! Anh phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi!”
Tôi không viết được kịch bản phim “Về Kinh Bắc” như gợi ý của ông Thuận, nhưng cũng tự an ủi là về cuối đời, lúc tuổi đã cao sức đã yếu mình còn gắng sức làm được một việc có ý nghĩa:
Năm 2022, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoàng Cầm, tôi đã có sáng kiến làm tập sách “Hoàng Cầm về Kinh Bắc”, tôi là chủ biên; và cùng bạn bè (trong đó có pianist Đặng Thái Sơn, tiến sĩ Nguyễn Quang A) và gia đình cố thi sĩ tổ chức in ấn cuốn sách rất đẹp; hai buổi ra mắt sách hoành tráng ở Viện Pháp Hà Nội và Đường Sách TPHCM đã là những sự kiện văn hóa đáng kể.
Cuốn sách không tình cờ in toàn văn và các dị bản của “Về Kinh Bắc” với những bài nghiên cứu, phê bình trong-ngoài nước, kèm cả những phụ bản quý giá: bản nháp đầu tiên “Về Kinh Bắc”, bìa của Văn Cao, Trần Thiếu Bảo và mấy trang chép tay của Hoàng Cầm chép tặng tôi (tang vật vụ án năm xưa), mấy bản “Hoàng Cầm ca” của Phạm Duy… Bản thảo đã được nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, giám đốc NXB Hội Nhà văn duyệt không bỏ một chữ, bất chấp “nhạy cảm”!
Trong buổi ra mắt sách trọng thể và đông đảo tại Viện Pháp ở Hà Nội, anh Thiều đã lên sân khấu “cảm ơn nhà thơ HH đã là người có công cho ra đời cuốn sách quí này”.
Trong những phụ bản trên, lạ nhất là bản nháp đầu tiên “Về Kinh Bắc” của tác giả, với rất nhiều những gạch xóa sửa câu sửa chữ, kể cả bài “Lá diêu bông” mà chính tác giả luôn kể như một huyền thoại (nghe ai đọc trong giấc mơ, thế là chép ra giấy không sửa một chữ!). Tôi đã được một sĩ quan an ninh tặng cho bản copy của nó (chắc là anh lấy được khi thanh lý hồ sơ vụ án năm xưa). Anh có nhã ý tặng tôi sau khi theo dõi cuộc trình bày của tôi về hồ sơ “Thoát Trung về văn hoá” (mà tôi tổ chức trên báo mạng van viet.info) ở trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật năm 2015.
_______________
VÌ SAO CÓ CHUYÊN ÁN “VỀ KINH BẮC”?
“Về Kinh Bắc” ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ.
Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!), trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên.
Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép.
Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách.
Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự “đỡ đầu” (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.
Tâm sự của Hoàng Cầm do Hoàng Hưng ghi, đăng trên báo mạng talawas.org của Phạm Thị Hoài ở Đức năm 2007:
Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết “Về Kinh Bắc” hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ năm đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm bốn tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ một, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất.
Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ôtô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả…
Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập “Về Kinh Bắc” chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui.
Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ “Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa” là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được”.
“Về Kinh Bắc” đã được lưu truyền “bí mật” lai rai suốt từ những năm 1960, nhất là sau 1975 khi đất nước thống nhất. An ninh Hà Nội biết, có đôi lần gọi tác giả lên “cảnh cáo” nhưng chỉ coi đó là thứ thơ “ngoài luồng” không được lưu hành chính thống, chưa đến mức là “phản động, chống Đảng”. Bản thân tôi, khi bị bắt và xét hỏi, đã hỏi ngược an ninh: “Vì sao suốt 20 năm, tập thơ này đã lưu truyền đến hàng trăm người mà không sao, giờ đến tôi thì lại bị bắt?” Họ không trả lời được. Tôi đâu biết, vì nó đã trở thành… “chuyên án”!
Chuyên án “Về Kinh Bắc” chắc đã được khởi động từ quãng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, TS Kinh tế, GS Đại học Laval, Quebec, Canada, cũng là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ “Về Kinh Bắc” để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là “Việt kiều yêu nước”, đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đã nhiều lần về nước làm việc theo lời mời của các viện chuyên môn. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.
Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay “Về Kinh Bắc” chẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”, và không ít “đặc tình” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của CA), “cá chìm” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì liên quan đến ông Hoàng “thơ chui” này mà giữ kín được!
Nhưng muốn hiểu vì sao có vụ án “Về Kinh Bắc”, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo “Về Kinh Bắc” bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài “Cây tam cúc”, “Lá diêu bông”, “Quả vườn ổi” (thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải như lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng…
Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1973, CA Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”, “Về Kinh Bắc” lại có thêm độc giả ở miền Nam; và đến 1979, sự giao lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “bộ ba cây-lá-quả” vẫn đứng đầu bảng.
Hoàng Cầm có kể đích danh một “nữ bác sĩ” xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin ông gửi cho một số bài thơ; sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai (bà tên thật là Cao Thị Ngọc Phượng, Cử nhân Sinh học, đệ tử ruột của thầy Nhất Hạnh từ những năm 1960 ở Sài Gòn, sau này là Sư cô Chân Không).
Thầy Nhất Hạnh yêu thơ Hoàng Cầm từ thời kháng chiến chống Pháp và Nhân Văn Giai Phẩm, nên thông qua bà để liên lạc với nhà thơ. Bà thường xuyên gửi quà (chủ yếu là thuốc Tây để Hoàng Cầm dùng và bán lấy tiền sinh sống) và thư từ với ông. Bà lấy tên “Cần Thơ” có nghĩa là… “cần có thơ”!
Chính Nam Dao là người đem một đĩa ghi âm Hoàng Cầm đọc thơ gửi sang Pháp cho bà. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan CA cho biết: “Về Kinh Bắc” bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính là vì mấy bài thơ “Cây-Lá-Quả” được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì CA có đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Quê Mẹ (Gần đây tôi mới được biết tờ báo này là của nhà thơ và người hoạt động xã hội Thi Vũ Võ Văn Ái).
Có lẽ khi Nam Dao đem bản “Về Kinh Bắc” mà Hoàng Cầm chép tặng anh vào Sài Gòn thì chưa có quyết định mở “chuyên án”. Nhưng sau đó ít lâu, anh nhận được thư của Hoàng Cầm và nhạc sĩ Hồng Đăng vào Sài Gòn chơi cũng kịp nhắc anh cẩn thận. Vậy là anh không dám mang theo, mà gửi nó cho nhà ngữ học Cao Xuân Hạo cất giữ, nên khi ra sân bay bay về Canada, an ninh khám xét hành lý không thấy!
Tuy nhiên, trong “tang vật” bắt được trong túi xách của tôi có một lá thư của Hoàng Cầm nhờ đem vào Sài Gòn gửi cho anh, thư dán kín nên tôi không biết nội dung! Vì thế, Nam Dao bị cấm về nước trong suốt sáu năm sau đó. Mãi đến năm 2002, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau ở Hà Nội khi anh nhờ tôi đưa đến chơi nhà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Năm 2015, khi tôi công bố bài viết “Vụ án “Về Kinh Bắc” – một sự kiện hậu Nhân Văn” trên website talawas.org của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Berlin (Đức), Nam Dao có gửi mấy lời “cước chú”:
“… Từ vụ án “Về Kinh Bắc” tôi phải đợi sáu năm, đến 1988, mới được về Việt Nam trong một phái đoàn GS Đại Học Canada được Bộ Ngoại Giao tiếp đón. Đến năm 1990, mặc dầu có giấy mời của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản lý Trung ương, về đến Nội Bài thì tôi được lịch sự mời ra… với lý do gì đến nay tôi cũng chưa biết, nhưng đoán là sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì phải cấp tốc xây hàng rào bảo vệ Hà Nội. Xin Visa vài lần sau đó mà không được, tôi biết thân mình, nhưng khi Trịnh Công Sơn viết thư nói: “… mình hết thời gian rồi”, tôi có gặp bà Đại Sứ Việt Nam thuở đó, xin và được phép về năm 1998… Cái oái oăm là có những nghịch lý khó chấp nhận: khi Sơn đến Quebec thăm tôi năm 1992, anh biết tôi ấm ức, bảo: “… cứ coi họ là những đứa bé nghịch ngợm lấy chân di một đàn kiến…”. Ngẫm nghĩ, anh an ủi cả anh lẫn tôi, tiếp: “… nhưng rồi đứa bé ấy cũng phải lớn lên chứ”. Lớn lên thế nào không biết, nhưng lớn đủ để chính thức nói một lời xin lỗi những con kiến càng cỡ Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… thì chưa!”.
Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên án “Về Kinh Bắc” đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét.
Theo Hoàng Cầm thì khả năng hai là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đã “dám nổi tiếng” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu đã sử dụng một số “CA riêng” của mình (viên trưởng phòng điều tra xét hỏi của Sở CA Hà Nội Nguyễn Doãn Nhạ là người Huế, có lẽ là người như thế).
Tháng 2-2022, dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm với sự kiện ra mắt sách “Hoàng Cầm Về Kinh Bắc” ở Viện Pháp (Institut de France) tại Hà Nội do tôi chủ trì, nhà báo Nguyễn Thành Phong kể trên Facebook:
Hồi đó anh làm việc ở NXB Công an, ông Khổng Minh Dụ trưởng phòng Văn hoá Văn nghệ của Cục An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) có đến NXB khoe là mới “phá” được vụ trọng án Hoàng Cầm, Hoàng Hưng âm mưu chuyển văn hoá phẩm phản động “Về Kinh Bắc” ra nước ngoài! Anh Phong có ý cho rằng vụ này chẳng qua là do ông họ Khổng bơm lên để “lập công”!
Cũng trong dịp này, trong buổi cùng tôi trò chuyện với đài BBC thì cựu đại tá Thái Kế Toại, nguyên trưởng phòng Văn nghệ Cục An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) sau thời ông họ Khổng, lại cho rằng vụ “Về Kinh Bắc” nằm trong chủ trương chung của ngành ngăn chặn mọi việc chuyển các tác phẩm bất lợi cho chế độ ra công bố ở nước ngoài.
“Trở lại bối cảnh xã hội Việt Nam đầu những năm 80, Phạm Duy làm Ngục Ca phổ nhạc một chục bài thơ viết trong tù của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đang bị giam giữ. Ngục Ca và Cầm Ca của Phạm Duy càng làm cho không khí văn nghệ hải ngoại và phong trào kháng chiến hải ngoại phức tạp thêm. Từ các căn cứ, chiến khu ở Thái Lan những toán quân biệt kích của Hoàng Cơ Minh, của Võ Đại Tôn tìm cách xâm nhập vào Tây Nam Bộ, vào Tây Nguyên. Miền Trung thì có Phong trào Fulro. Nhiều toán phản động gây bạo loạn. Làn sóng người vượt biển tỵ nạn. Các đài phát thanh tâm lý chiến, sách báo, băng nhạc, băng video hải ngoại chống Việt Nam. Bối cảnh chung đó ít nhiều là lý do cho việc ngăn chặn ý định đưa một tập bản thảo như ‘Về Kinh Bắc’ ra nước ngoài”.
Xin đưa lại cả ba khả năng về nguyên do “Về Kinh Bắc” thành “chuyên án” để bạn đọc tự xét đoán. Thế là trong lúc cái lưới của “chuyên án Về Kinh Bắc” đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn ra, vô tình chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để CA cất vó! Tôi bị bắt chiều 17/8/1982 thì sáng 20/8/1982 công an đến bắt Hoàng Cầm tại nhà.
***
Mời tham khảo bài thơ được xem là “phản động” tiêu biểu trong tập “Về Kinh Bắc”, cũng là bài nổi tiếng nhất của đời thơ Hoàng Cầm (sau bài “Bên kia sông Đuống” viết trong kháng chiến chống Pháp) chính vì nó gắn với vụ án “Về Kinh Bắc”! Đã có ba ca khúc liên quan đến bài thơ này, hai bản phổ nhạc cả bài thơ là của Phạm Duy, Hữu Xuân; một bản là ca khúc nổi tiếng “Sao em nỡ vội lấy chồng” của Trần Tiến đã lấy cảm hứng và dựa theo một câu thơ trong đó “… Ru em thời thiếu nữ kiêu sa, em đố ai tìm được lá diêu bông, em xin lấy làm chồng”.
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời…
… ới Diêu bông…!
Trong những ấn phẩm đã xuất bản sau “Đổi mới”, Hoàng Cầm tâm sự rằng bài thơ viết về mối tình “chị-em” đơn phương vô vọng của tác giả lúc 12 tuổi với cô gái cùng làng tên là Vinh 20 tuổi. Nghe nói, năm 1988 Hoàng Cầm vào Sài Gòn lần đầu tiên sau khi ra tù, bà Vinh có đến dự đêm Thơ Hoàng Cầm ở Nhà Văn hoá Quận 1 nhưng không ai biết (?). Tác giả cũng khẳng định “Diêu bông” là thứ lá huyền thoại mà mình sáng tạo ra.
Sau “Đổi mới”, khi giới thiệu chùm thơ này trên báo Lao Động năm 1991, tôi đã viết:
“… Đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi”.
Và về ý nghĩa của cái “lá diêu bông”: “Theo tôi, cái tên đã hình thành một cách vô thức từ những liên tưởng do hai âm “diêu” và “bông” gợi lên. “Diêu” gợi nghĩa “phiêu diêu”, “bông” gợi nghĩa “bông lông” hoặc “nhẹ như bông”. Lá Diêu Bông là một cái lá bay phiêu diêu, vô định” (báo Phụ nữ TPHCM, năm 2001).
Đến hôm nay, chắc không ai hình dung nổi một bài thơ như thế “phản động” ở chỗ nào? Thế mà 43 năm trước đây, nó đã khiến hai nhà thơ một già một trẻ đi tù!
Nhưng hồi ấy, có một luồng suy diễn (không biết xuất phát đầu tiên từ an ninh văn hoá Việt Nam hay từ hải ngoại truyền về), cho rằng bài thơ ngụ ý: người nghệ sĩ/người dân (em) yêu Đảng (chị); chị vẽ ra một tương lai đẹp đẽ nhưng không có thật (“lá diêu bông” = chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản) để “em” đi tìm; nhưng “em” tìm mãi không thấy, trong khi đó “chị” bỏ đi lấy chồng (Đảng tọa hưởng lạc thú một mình) từ lúc nào! Để cho “em” cứ suốt đời bơ vơ gọi “Diêu bông hời, ới diêu bông!”.
Theo sư cô Chân Không ở Làng Mai bên Pháp, chính là người mang danh “Cần Thơ” đã được Hoàng Cầm gửi thư và thơ cho, thì Phạm Duy với lời bình chùm ca khúc “Cầm ca” đã góp phần khiến cho Hoàng Cầm mang vạ!
“Nhưng nhìn kỹ lại tình hình lúc đó, tôi thấy vào khoảng tháng 3-1982 nhạc sĩ Phạm Duy đã cho ra đời hai băng cassettes:
1/Ngục ca, phổ biến 10 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện do Phạm Duy phổ nhạc, những bài như: Từ vượn lên người, Từ người xuống vượn, Cái lầm to thế kỷ…
2/ (Hoàng) Cầm ca, trong đó có bốn bài thơ của Hoàng Cầm là Lá diêu bông, Qua vườn ổi, Cỗ bài tam cúc, Đôi cá đòng đong. Trong băng nhạc này, trước khi Thái Hiền hát, Phạm Duy đã nói tới các bài thơ này như những lời buộc tội chế độ Cộng sản của thi sĩ. Theo Phạm Duy, thi sĩ Hoàng Cầm đã ví Cộng sản như một người chị, một người đàn bà rất xấu mà muốn cho mình có một bộ mặt xinh đẹp nên đã dỗ dành bao nhiêu người em đi tìm cho mình những chiếc lá tô son điểm phấn cho chế độ và hứa hẹn sẽ thưởng khi tìm ra lá diêu bông, và dù cho có em nào đã tìm ra lá, cô chị vẫn xòe tay phủ mặt không nhìn.
Phạm Duy lại viết trong tác phẩm Ngàn lời ca rằng Lá Diêu Bông là một loại lá đặc biệt ở làng Đình Bảng-Bắc Ninh, phụ nữ Việt Nam thời xưa đã vắt nước lá này để bôi lên mặt cho da thịt thêm hồng hào tươi đẹp. Theo Phạm Duy, nhà thơ Hoàng Cầm đã cho rằng không ai có thể làm cho chế độ Cộng sản Việt Nam này tốt đẹp được. Trong khi đó, lời chú giải về Lá Diêu Bông của chính Hoàng Cầm viết cho tôi là:
“Còn lá diêu bông không thể ai tìm thấy tên trong bất cứ một sách vở tài liệu nào về khoa học tự nhiên. Tự người đọc, nếu yêu thơ sẽ hình dung ra cái lá ấy. Một cái lá anh đặt tên để làm symbole (biểu tượng) thế thôi. Symbole của những mối tình cao đẹp, của những lý tưởng trong sáng, của những gì là Thật, là Lành, là Đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhưng rồi cuộc sống lắm khi tàn nhẫn vì xâu xé vật lộn, vì ngu si tham lam nên lắm khi cái lá ấy ở ngay trong mình mà mình không thấy, và đến khi nhận ra thì cuộc đời đã tàn!”
(Hồi ký “Cần Thơ về Kinh Bắc”)
Tôi đã tìm đọc kỹ Hồi ký của Phạm Duy, phần nói về “Hoàng Cầm ca”, tuy có vài ý như trên, nhưng chốt lại, ông nhận định:
“Thế là sau khi quá mệt mỏi với loại ngục ca, tị nạn ca hay tủi nhục ca vì phải lên gân trước thời cuộc, những bài thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm mà tôi soạn thành Hoàng Cầm Ca vào đầu thập niên 80 này làm cho tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy dường như đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên gặp lại quê hương qua những câu chuyện mà tôi cho là rất kỳ diệu, ảo huyền, lung linh và đầy thi vị…
… Đó là chuyện lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc, chuyện tâm tình của những con bê vàng, con chim cu, con chào mào, con phù du, con chim vành khuyên… Quê hương mờ nhạt hay rực rỡ, êm đềm hay chua xót của tôi hiện ra, quả rằng còn quá nhiều cái đẹp, chứ không phải chỉ có ác mộng, ngục tù, hận thù và tuyệt vọng!
Những bài thơ trong tập Đường Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm được phổ nhạc thành Hoàng Cầm Ca vẫn còn buồn rười rượi vì nó phản ảnh một miền của đất nước Việt Nam vào những năm 60-70 nhưng nó chứa đựng quá nhiều hương vị quê hương nên nó là liều thuốc an thần cho bản thân tôi sau khi tôi bị đắm chìm vào không khí chết chóc gây nên bởi thơ Nguyễn Chí Thiện (ngục ca) hay nhạc Hà Thúc Sinh (tủi nhục ca). Tôi cũng nghĩ rằng: là một người luôn luôn có phản ứng trước nghịch cảnh, tôi không nên tự đầy đọa tôi hay khuyến khích người nghe đi vào ngõ bí là sự thù hận, oán ghét, chửi rủa. Chắc chắn Đường Về Kinh Bắc (nghĩa là đường về quê cũ) giúp tôi có một lối thoát”.

_______________
CHUYỆN “VUI” HOẢ LÒ – NHỮNG ĐÊM “HÁT ĐỐI” NÁO ĐỘNG PHỐ PHƯỜNG
Những tối mùa thu năm 1982, có hiện tượng vô tiền khoáng hậu giữa lòng Hà Nội: người đi đường chen nhau đứng ở ngã ba Hai Bà Trưng-Hoả Lò. Để nghe… trai gái tù nhân trong Hoả Lò “hát đối”!
“Maison Centrale” (Nhà [giam] Trung tâm) từ thời Pháp, có tên tiếng Việt là Hoả Lò, do nó được xây trên đất làng Hoả Lò, cái làng chuyên sản xuất ấm và hoả lò (một loại bếp đun) bằng đất. Nhưng với những đã từng vào đây thì nó không hổ danh, vì nóng bức kinh người, mà nước tắm thì quí như vàng!
Dưới chế độ VNDCCH và CHXHCNVN, Hoả Lò là trại tạm giam của thành phố Hà Nội một thời gian dài, là nơi giam những người bị bắt để lấy khẩu cung, trước khi có án. Sau khi được toà án xử thành án thì tù nhân sẽ được chuyển đi các “trại cải tạo” nằm ở các tỉnh. Hoặc nếu được coi là thuộc vụ án chính trị quan trọng thì sẽ chuyển lên Trung tâm thẩm vấn Bộ Nội vụ ở ngoại thành Hà Nội.
Chiều muộn 17/8/1982, chiếc xe bít bùng nhỏ đưa tôi vào đó. Sau khi làm thủ tục kiểm kê và thu giữ đồ đạc cá nhân trong đó có “tang vật vụ án” là tập thơ “Về Kinh Bắc” chép tay của Hoàng Cầm, tôi được đưa vào một phòng giam nhỏ, trong đó đã có sáu bảy người tù. Mấy người trung niên ra dáng “cựu cán bộ công nhân viên” và mấy cậu đầu trọc nhìn thấy ngay là dạng tù lưu manh!
Một cậu đầu trọc ra lệnh cho tôi nằm xuống, lấy chân dậm mạnh mấy cú vào ngực tôi khá đau! Cậu bảo đây là đòn “chào buồng”, thủ tục bắt buộc đối với mọi “ma mới” nhập trại! Để biết thế nào là lễ độ với các “sĩ quan”, “đại bàng” ma cũ! May mà một anh ra dáng “cựu cán bộ” đã nói cậu ngưng lại, và hỏi: “Anh bị bắt vào đây vì tội gì?”
Tôi trả lời: “Tội lưu truyền văn hoá phẩm phản động, là tập thơ của nhà thơ Hoàng Cầm!” Thế là anh nói tôi ngồi dậy! Không biết vì Hoàng Cầm nổi tiếng hay vì tội “chính trị” được coi là “sang trọng” ở chốn “ngoài vòng pháp luật” này?
Cậu trọc đầu có vẻ tiếc rẻ. Cậu thật thà nói: “Những người ở buồng này là đã có án, chờ ngày đi “bọp” (trại cải tạo). Anh có gì cho tôi làm kỷ niệm không?” Tôi chẳng có gì ngoài chiếc khăn mùi xoa trong túi quần, liền móc ra cho cậu! Cậu đành nhận vậy! Anh “cán bộ” hỏi kỹ hơn câu chuyện của tôi, và cho biết mấy anh “cán bộ” đây là phạm nhân trong vụ cháy lớn các nhà kho ở Cảng Hải Phòng mấy năm trước, nay đã thành án.
Đêm đầu tiên trong đời tù của tôi đi qua một cách… bình thường không ngờ, tôi chỉ thao thức ít phút rồi cũng chìm vào giấc ngủ sau một ngày quá nhiều sự cố! (Hoàng Cầm cũng bị đưa vào phòng giam này vào ngày 20/8, và được những người ở đây kể là tôi đã vào đây chiều 17/8).
Nhưng đây mới là “phòng chờ” nằm ở khu ngoài của Hoả Lò, cùng với các phòng hỏi cung. Sáng hôm sau tôi được đưa vào khu trại giam chính thức bên trong. Ranh giới giữa hai khu là cái cổng sắt to cao ngất. Qua cửa, là cái sân rất rộng. Lúc ấy đúng vào giờ tù nhân ra sân ăn sáng! Đập vào mắt tôi là dăng dăng những hàng tù nhân đầu trọc lốc, mình xăm trổ, xương xẩu, chân tay nghều ngào như củi khô! Ấn tượng đầu tiên ấy được ghi lại về sau trong bài thơ “Vào”.
Vào
Cánh cửa sắt đen kịt
Đóng sầm sau lưng tôi
Bỗng ào ào náo loạn
Như một bể dầu sôi.
Những cái đầu trọc lốc
Vươn theo từng bước đi
Những bộ xương đen đúa
Bốc lên mùi tử thi.
A! Địa ngục là đây
Ta bắt đầu kiếp quỷ
Sao dễ dàng quá nhỉ
Chỉ một bước một giây
Bước qua cánh cửa này
Kiếp người đã xa lắc.
Giật mình nghe tiếng quát:
– Cởi hết áo quần ra!
18/8/1982
Có một hình ảnh là lạ khiến tôi phải chú ý: giữa đám tù trẻ lưu manh, lại có một ông già râu tóc rất dài, có thể nói là có phong thái “tiên phong đạo cốt”! Sau tôi mới biết đó là Nguyễn Chí Thiện, đã bị đi cải tạo sau 1954, rồi vì đem bản thảo tập thơ “Hoa địa ngục” vào Sứ quán Anh mà bị vào tù lần thứ hai (theo một tư liệu trên mạng thì đây là lần thứ ba!).
Các công an trong trại thường nói nhạo ông là “tỷ phú không tiền” vì nghe nói tập thơ của ông đã được xuất bản ở nước ngoài! Họ nhốt ông chung với đám tù lưu manh cốt để mượn tay chúng trừng trị ông! Có biết đâu, chỉ sau ít ngày, ông đã chinh phục tất cả phòng giam với tài kể chuyện của mình! Sau khi kể hết các pho truyện Đông truyện Tây mà ông đã đọc, ông bắt đầu… sáng tác ra chuyện để kể cho bạn tù nghe mỗi tối sau giờ đóng cửa phòng giam! (Ông được trả tự do năm 1991 và sau đó sang Mỹ, chết ở Mỹ năm 2012).
Phòng giam của tôi là phòng số 18, ngay mặt đường Hỏa Lò, là phòng dành cho các “cán bộ công nhân viên phạm tội lần đầu” (nhưng cũng có khoảng ¼ là tù hình sự, chắc họ xếp vào để “dằn mặt” đám tù hiền lành kia khi cần thiết). Vuông góc với nó, là phòng dành cho nữ tù nhân, nằm ở mặt tiền phố Hai Bà Trưng. Ở giữa là bốt gác của cảnh sát trại giam.
Sau khi Hoả Lò bị phá để xây Hanoi Tower, trại tạm giam của thành phố Hà Nội chuyển ra ngoại thành, thì phòng giam số 18 vẫn được giữ nguyên làm vật chứng lịch sử của Maison Centrale, vì đây là nơi nhiều nhà cách mạng Cộng sản lừng danh từng bị giam giữ, như Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng…
Những năm 1960, nơi đây cũng giam giữ 60 phi công Mỹ, trong đó có John McCain. Khi tôi vào, thì số tù nhân trong phòng giam khoảng 200, đêm ngủ phải nằm “úp thìa” trên sàn mới đủ chỗ. Dịp 1.000 năm Thăng Long, lần đầu Hoả Lò mở cửa cho dân vào tham quan, tôi sửng sốt thấy cảnh phòng giam thời Tây được phục dựng: chỉ có vài chục người, toàn được nằm trên sạp rất cao! Ôi, “tù Tây sướng hơn tù Ta” (nhại bài hát “Ôi hàng Tây quý hơn hàng Ta” được giang hồ Hà Nội chế từ câu thơ “Đông Trường Sơn nhớ Tây Trường Sơn” của bạn Phạm Tiến Duật) quá đi thôi!
Hàng ngày, cửa sắt lớn của phòng giam được mở ra khoảng bảy giờ sáng. Sau thủ tục “điểm danh” (cai tù tức “quản giáo” bước vào, đọc tên ai thì người ấy phải “đọc rõ số giam” của mình); sau đó người tù ra sân đánh răng rửa mặt chớp nhoáng. Suốt giờ hành chính cửa cứ mở để lâu lâu có người bị gọi đi “cung”; rồi tù ra ăn trưa, ăn chiều (hai bữa cơm của nhà tù phát). Còn lại, suốt thời gian ở trong phòng giam người tù phải tuyệt đối im lặng. Đến khoảng năm giờ chiều, cửa đóng sầm lại, là bắt đầu thời gian “sinh hoạt tự do” cho đến lúc có kẻng đi ngủ (khoảng chín giờ tối). Phòng giam bắt đầu thành một cái chợ với 200 con người đã phải âm thầm nhịn nói suốt ngày!
Rồi sẽ đến giờ “văn nghệ”! Những kẻ có tài lẻ hát hò được vinh dự phục vụ buồng! Chủ yếu là hát “nhạc vàng”! Tôi không quên được một người tù lái xe rác ngà ngà say rượu lỡ cán chết một người đi đường ban đêm, anh có giọng nam trung với bài tủ là “Gửi người em gái miền Nam” của Đoàn Chuẩn:
Cành hoa tim tím đắm say hương xuân nồng
Rừng đào phong kín cánh mong manh như hoa lòng
Một cậu chuyên “cắt bom” (ăn cắp đồ chở trên xe đạp bằng cách cắt dây buộc đồ đằng sau xe) giọng nam cao với bài “Bài Thánh ca buồn”:
Bài thánh ca đó còn nhớ không em
Noel năm nào chúng mình có nhau…
Tôi đã học thuộc bài hát này ở Hoả Lò và nó sẽ giúp tôi và những bạn tù bị chuyển đi trại Thanh Cẩm gần ba năm sau có bữa ăn sáng nóng hổi đầu tiên từ các cha cố bị giam giữ ở đó!
Là một “ca sĩ” có giọng hát nghe được, từng học thanh nhạc từ năm 12 tuổi với nữ ca sĩ nổi tiếng một thời là Minh Đỗ, từng là đội trưởng đội ca thiếu nhi Hà Nội từng được vào Phủ Chủ tịch mỗi tối thứ bảy để phục vụ Bác Hồ tiếp khách là các chuyên gia Trung Quốc đang giúp Việt Nam xây dựng miền Bắc, là trưởng ban văn nghệ trường cấp ba An Dương Hải Phòng đêm đêm dẫn học sinh ra hát hò động viên các chiến sĩ phòng không trên ụ pháo, tôi đã góp phần tốt đẹp trong những tối văn nghệ Hoả Lò; và nhờ thế, nhanh chóng được chuyển từ thân phận “ma mới” phải nằm ngủ dưới sàn xi măng, gần “nhà mét” (nhà vệ sinh) hôi thối lên bệ cao ở giữa phòng, tức là được hưởng tiêu chuẩn của “sĩ quan”, “đầu gấu”!
Cùng với tôi, còn có anh Phạm Sông Tương, nghệ danh là Tương Giang, làm việc ở Ban Văn nghệ đài Tiếng nói Việt Nam, tổ dân ca, ca cổ. Anh can tội làm những bài thơ “phản động” và bị chính vợ mình tố cáo với công an! Biết thế, anh đem chồng bản thảo của mình đi gửi thì bị bắt giữa đường. Thật tình tôi thấy tinh thần anh không được bình thường, những bài thơ “phản động” của anh phần lớn ngồ ngộ, kiểu như:
“Tên tôi là Phạm Sông Tương
Suốt ngày chửi mắng coi thường cấp trên
Tiến lên ta quyết tiến lên
Tiến lên ta gọi cấp trên bằng thằng”!
Anh không có ai “tắc” (tiếp tế), nên bữa ăn nào tôi cũng chia sẻ với anh đồ ăn mà gia đình tôi gửi vào. Anh chuyên phục vụ phòng bằng các bài hát chèo.
Một người nữa là một thanh niên, ca sĩ của một đoàn văn công địa phương nào đó, không rõ bị bắt vì tội gì.
Không thể quên được những tối “văn nghệ” Hoả Lò! Đặc biệt nhất, có lẽ chỉ có một lần trong lịch sử nhà tù này, là những tối “hát đối” của chúng tôi với tù nhân nữ ở phòng bên!
Nhân tiện kể một chuyện kỳ quái diễn ra trong những buổi tối sau khi đóng cửa phòng. Phòng tôi có một tay “đầu gấu” to con, không biết phạm tội gì nhưng chắc là trọng án, triển vọng tù mọt gông, nên rất ngỗ ngược, không biết sợ ai.
Chiều chiều cứ đóng cửa phòng là hắn trèo lên lưng chừng cửa sắt, từ trên ấy có thể nhìn sang “nhà mét” của phòng nữ. Hắn treo mình ở đấy để theo dõi tất cả những nữ tù nhân thay đồ lót, tắm rửa, và vừa nhìn vừa… công khai thủ dâm. Mọi người im lặng cho hắn hưởng cái đặc quyền kỳ quái ấy. Theo hắn kể, thì nhiều tù nhân buồng nữ biết việc ấy, nhưng cũng đồng lõa, thậm chí còn cố tình “biểu diễn” cho hắn xem! Thật đúng với câu thành ngữ “b… tù cu hãm”, đúng hơn nữa phải là “l… tù cu hãm”.
Một buổi tối, từ bên phòng nữ, nổi lên một giọng hát nữ, xướng một câu hò lục bát! Rồi ngừng lại như chờ đợi! Phòng tôi ban đầu không ai để ý, nhưng khi bên nữ lặp lại câu hát mấy lần, thì mọi người hiểu là bên phòng nữ “thách đối”, nên nhao nhao yêu cầu tôi với Tương Giang phải đáp lại. Thế là hai đứa chúng tôi phải thay nhau nghĩ ngay một câu hò lục bát để đáp lại bên nữ.
Tôi không còn nhớ được những câu hò đối đáp hồi ấy giữa hai phòng, nhưng phải nói thật là bên nữ, chắc là mấy cô thôn nữ ở những vùng quen hát đối, nghĩ rất nhanh những câu hò thú vị khiến hai chúng tôi mang tiếng là “nhà thơ, nhà báo chuyên nghiệp” mà toát mồ hôi mới nghĩ kịp câu đáp. Và người cất tiếng hò lên câu lục bát mà hai chúng tôi nghĩ ra chính là anh ca sĩ địa phương nọ.
Với những ai chưa hiểu về lối hò đối đáp như thế, xin tham khảo ví dụ sau đây:
Bên nữ:
– Hò ơ…
Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời?
Bên nam:
– Hò ơ…
Em ơi mắt sắc hơn dao
Bụng sâu hơn biển, trán cao hơn trời
Bên nam:
– Tóc em dài sao em không bới
Để chi dài bối rối dạ anh?
Bên nữ:
– Tóc em dài em cái hoa thiên lý
Anh ngó làm gì cho bối rối dạ anh?
Bên nữ:
– Khế với chanh một lòng chua xót,
Mật với gừng một ngọt một cay.
Ra về bỏ áo lại đây,
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng.
Bên nam:
– Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa
(sưu tầm trên mạng)
Cả phòng hào hứng theo dõi cuộc hò đối đáp và vỗ tay tán thưởng! Thật là những giờ phút xả hơi hiếm có trong cảnh tù đày! Những anh lính canh trên bốt gác chắc cũng khoái nghe, nên không can thiệp gì hết! Những tối “hát giao duyên” của tù nhân Hoả Lò kéo dài được khoảng một tuần lễ thì một tối, đang mê mải hò, bỗng có tiếng đập cửa xầm xầm và tiếng quát bên ngoài:
– Ai cho chúng mày hát hò ầm ĩ thế hả? Im ngay!
Thì ra các tối, người đi đường đứng lại đầy góc phố Hai Bà Trưng-Hoả Lò để nghe tù hát đối! Chắc là Ban giám thị Hoả Lò hay cấp trên nữa khi biết tình trạng ấy, hạ lệnh cấm ngay! Từ đấy chấm dứt chương trình giao duyên! Thật tiếc!






