Bố và tôi (1)

Ảnh: Kirk Cameron/Unsplash

I/ Lần gặp gỡ đầu tiên

Tháng năm năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, cũng như bao sĩ quan của miền Nam Việt Nam, bố tôi “được” tập trung đi học tập cải tạo. Mẹ đưa bố đến nơi trình diện với tí vật dụng cá nhân và đồ ăn, rồi về nhà, ngồi chờ bố tôi về. Bố tôi cấp úy, mẹ bảo họ nói chắc mươi ngày thôi gia đình tôi sẽ được đoàn tụ.

Chờ đâu gần một năm thì được tin bố tôi chuyển trại về Thành Ông Năm, Hóc Môn. Mẹ thu xếp công việc dẫn theo tụi tôi về Sài Gòn thăm bố. Mẹ và bà nội tôi gói cuốn tự điển Anh-Việt, thuốc lá nhà cuốn, nửa cân chè, bàn chải và thuốc đánh răng, trụ sinh, chút gạo, đường thẻ, tép, lương khô và một vài thứ đồ ăn mang đi cho bố.  Đến ngày đi thăm, mẹ dắt tôi theo.  Tôi còn nhớ, chúng tôi đi xích lô đến bến xe và mẹ tôi bắt xe đi Hóc Môn.  

Đến nơi, thấy họ khám đồ rất gắt gao, tịch thu hết đường thẻ, sách vở, và thuốc trụ sinh.  Bà và mẹ lo lắm. Mẹ cột một túi đồ, gồm những thứ bị cấm vào lưng tôi, rồi tiến dần đến cổng. Gia đình trước gia đình tôi đang bị chất vấn, một vài cô khóc thút thít vì bị tịch thu bao nhiêu là đồ. Mẹ dặn tôi không mở miệng, rồi đẩy tôi đứng trà trộn với gia đình trước.  

Trong lúc lộn xộn, họ tưởng đã khám xong gia đình đó và mở cổng cho mọi người vào, mẹ ấn vai, tôi lon ton đi theo gia đình kia, quay lại thấy mẹ nhìn theo tôi, ánh mắt đầy lo âu, lo lắng cho đứa con gái bé bỏng, lo cho bố tôi đang bị giam cầm, và lo cho gia đình nhỏ bé của mẹ. Tôi lúc đó chưa được năm tuổi, túi đồ nặng trĩu sau lưng, cố gắng bước cho kịp nhà người ta rồi đứng chờ mẹ tôi dưới gốc cây. Tôi chẳng thấy sợ hãi gì, trong lòng nôn nao không tả, chỉ mong bà và mẹ nhanh lên để tôi được đi gặp bố tôi.

Mẹ bảo tôi gặp bố mấy lần rồi. Thậm chí khi bé, mỗi lần về phép bố tôi còn đi theo sau mẹ gõ xoong gõ nồi trong lúc mẹ cho tôi ăn. Ngày ấy tôi bé tí, nào nhớ chi. Tôi chỉ biết bố qua hình ảnh và qua những câu chuyện mẹ và bà kể. Bây giờ sắp được gặp bố bằng xương bằng thịt, tôi chẳng quan tâm mấy đến chuyện mình vừa phạm tội: mang đồ cấm vào trại giam. Giờ nghĩ lại thấy giật mình, mẹ tôi gan to thật, dám mang tự điển Anh-Việt cho bố tôi. Nếu bị bắt quả tang, chắc chắn mẹ tôi cũng theo bố đi học tập cải tạo luôn.

Bố chẳng giống bố trong hình của tôi. Bố trong hình trẻ măng, bế tôi ở sở thú Sài Gòn. Bố trong hình nhìn phong độ trước Nhà Trắng ở Mỹ. Bố trong hình nhìn thư sinh, lãng mạn, tình tứ khoác vai mẹ. Bố trong hình nhìn phong trần với bộ đồ hướng đạo Việt Nam.

Bố trước mặt tôi ốm nhom ốm nhách, tóc tai dài ngoằng, râu ria lởm chởm. Bà và mẹ ôm bố, nước mắt chảy dài. Bố bế tôi, tung lên cao. “Bố ơi, bố hôi mùi gì á”. ”Cha mày”, bố bảo, rồi đặt tôi ngồi trên đùi bố. Tôi mân mê mấy cọng râu trên mặt bố và hỏi thăm mấy cái răng cửa của bố sao mất hết trơn rồi. Mẹ và bà nước mắt dàn dụa vẫn chưa hết rơi. Bố với tay lau nước mắt cho mẹ, rồi hỏi ở nhà tôi và bé Khanh có ngoan không, có giúp mẹ và bà không? Bố hỏi mẹ và bà làm gì? Mẹ kể chuyện ngoài cổng trại, bố xoa đầu tôi, rồi bảo tôi gan quá. Nhờ tôi mà bố có sách học. 

“Sao bố học gì mà vừa ở xa, vừa lâu quá không về nhà?” Tôi hỏi, “con đi học có mấy tiếng một ngày thôi”. “Khi nào bố về?” “Khi nào học xong là bố về ngay”. Câu trả lời của bố tôi, thành câu hỏi tôi và mẹ lặp đi lặp lại suốt một thời gian dài: khi nào bố mới về.  

Bố lấy trong túi quần ra ba bốn cái lược làm bằng nhôm, trạm hình hoa, bướm cho tôi, mẹ, và bà.  Bố bảo để dành một cái cho bé Khanh. Bố nắm tay tôi trong tay bố, tay bố cứng và chai, móng tay đen sì và hư hết. Tôi dặn bố nhớ tắm và cắt móng tay. Bà bảo tôi già trước tuổi.

Bà và mẹ chưa khô nước mắt, tiếng kẻng đã vang lên, họ xua gia đình tôi ra khỏi phòng thăm và đẩy bố vào trong. Tôi nắm tay bố thật chặt, sợ buông ra là không bao giờ được nắm tay bố nữa. Tiếng gọi “bố ơi” của tôi ngày đó ám ảnh bố đến mãi sau này.

Lớn lên học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông, giai đoạn này của đất nước, khi gần triệu người bị giam cầm sau chiến tranh với hơn một trăm năm mươi ngàn người không trở lại, chỉ được nhắc đến một vài dòng: “Với chính sách khoan hồng của Đảng và nhà nước, ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động được tập trung học tập cải tạo…”

Ra nước ngoài khi học lịch sử Mỹ và chiến tranh Việt Nam, tôi quyết định tìm hiểu sâu hơn về giai đoạn này, nơi bố tôi và cả một vài thế hệ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh đã mất đi vĩnh viễn tuổi trẻ của họ.

Năm 1969, trên sông USSURI, dọc theo biên giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung Quốc đã động binh giáp chiến. Sự kiện này chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng sự rạn nứt giữa hai đảng cộng sản là có thật và dĩ nhiên Hoa Kỳ đã không bỏ lỡ cơ hội này tìm cách ly gián và làm suy nhược hàng ngũ đối phương. Tháng 10-1971 tại Đại Hội Đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan để bắt tay với Trung Quốc và năm 1972 Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm Trung Quốc trong bảy ngày.

Chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ thay đổi từ giờ phút đó và vận mệnh của Việt Nam Cộng Hòa cũng cùng chung mẫu số. Tại hòa đàm Paris, phụ tá của Henry Kissinger tuyên bố: “… Người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam”.

Bên cạnh đó, làn sóng chống chiến tranh dâng lên như nước thủy triều ở Hoa Kỳ. Cả một thế hệ xuống đường từ năm 1968, gồm toàn những thành phần giới trẻ mới vào đời, chịu ảnh hưởng tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzgerald. Họ sợ hãi, một loại sợ hãi đặc biệt chỉ tìm thấy trong các xã hội giàu có. 

Đó là thứ sợ trách nhiệm vì ham hưởng thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ vấn đề gì. Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu và Việt Nam một phần vì muốn lợi dụng sự phân hóa trong khối cộng sản quốc tế nhưng phần khác cũng vì áp lực của phong trào phản chiến trong nội địa. Về phía miền Nam Việt Nam, mặc dầu với nhiều chiến thắng từ Mậu Thân 1968 đến 1974, nhưng rốt cuộc quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã phải tủi hờn rã ngũ. Họ đã trả giá đắt nhất cho sự phản bội của “đồng minh” Hoa Kỳ.

Tháng 5-1975, tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài Gòn tuyên bố trước báo chí: “Đối với người Việt Nam không có ai là kẻ chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế quốc Mỹ là bị đánh bại mà thôi.” Vì lời tuyên bố này bố tôi cùng các quân nhân, công chức, và thành viên đảng phái quốc gia đã tự nguyện đi học tập cải tạo. Một tháng, một năm, hai năm, rồi ba năm trôi qua, hy vọng được đoàn tụ với gia đình tan tành mây khói. 

Một số bạn của bố tôi còn bị lưu đày lên núi rừng Bắc Việt. Biết bao người đã bỏ mạng vì đói khát, bịnh tật, và mất niềm hy vọng trong tù đày. Đó là chưa nói đến hàng vạn người đem sinh mạng mình và con cái mình để đổi lấy tự do. Phong trào “thuyền nhân tị nạn” đã đánh động lương tâm nhân loại vì trong số hàng triệu người liều chết ra đi, gần một phân nửa đã nằm xuống trong lòng đại dương hay làm mồi cho hải tặc.

Vẫn biết lịch sử được viết bởi bên thắng cuộc nên khó lòng mang quan điểm khách quan. Thế hệ chúng tôi lớn lên học thuộc lòng những dòng sử của người chiến thắng và mù mờ với những gì thực sự xảy ra trong và sau cuộc chiến thậm chí với những gì xảy ra cho ngay chính ông bà và cha mẹ mình.

Ảnh: Rizky Ramadhan/Unsplash

II/ Ngày về

Bố về đầu mùa hè. Tôi và bé Khanh đang ngủ trưa, bố nhón tay kéo chăn đắp cho chị em tôi. Tôi giật mình thức dậy, dụi mắt mãi mới nhận ra bố. Bố gầy nhom, tóc dài, đội nón, bố có mùi cỏ và đất sét. Bố ngồi nửa mông ở mép giường như sợ làm dơ chăn nệm. Bé Khanh chưa gặp bố bao giờ nép sau lưng tôi. “Bố mình đó, sao lại sợ”. Bố đưa quà cho chị em tôi: kẹp tóc và hai cái hộp bằng nhôm, có chạm trỗ thật nhiều hoa và tên của hai đứa.

Bà nội chạy xuống nhà chị Meo dưới hầm mua một đống lá gì đó, bỏ vô nồi, nhỏ thêm chút dầu nóng và gừng, rồi chụm củi nấu nồi nước xông cho bố. Bà tôi lấy cái chăn lớn nhất, để nồi nước xông xuống đất; bố tôi chỉ mặc cái quần xà lỏn, ngồi giữa nhà bếp, ngay cạnh nồi nước.  Bà lấy cái chăn trùm lên bố và cái nồi. Bà bảo bố: từ từ mở nắp nồi, hít thở mạnh để mùi lao tù theo hơi nước bốc lên và bay đi. Xông để thông khí huyết và đào thải mùi tù tội, để bắt đầu một chương mới của cuộc đời.

Một chút hơi nước thoát khỏi chăn, chị em tôi đứng bên ngoài cũng hít lấy hít để. Mùi dầu, mùi lá xông, mùi bộ đồ dơ dáy nhàu nát ở góc nhà, và mùi bố quyện lấy nhau làm căn bếp nhỏ của gia đình tôi trở nên rộn ràng ấm cúng khác thường. Dù gì thì bố đã về, những tháng năm tù đày đã qua, mẹ tôi lại cười trở lại. Vậy là đủ rồi. Tôi từ đấy, bỗng nghiện mùi xông.

Mẹ đưa tiền bảo tôi chạy lên nhà bà Tân Hưng mua một lưỡi dao lam cho bố cạo râu.  Bà Tân Hưng hỏi tôi mua dao lam làm gì. “Bố cháu mới về, bà ạ”.  “Cậu Hiền về rồi à, thôi cầm dao về cho bố mày cạo râu, bà không lấy tiền”. Tôi cám ơn bà rồi chạy nhanh về nhà. Mẹ tôi đang loay hoay thổi cơm. Hôm đó cả nhà được ăn cơm trắng.  Tôi không nhớ lần cuối mình không phải ăn độn là lúc nào. Mẹ nấu chè bắp. Hai chị em tôi và bố được ba chén lớn.  Bà và mẹ no rồi, nên ăn ít.  

Tôi ăn xong phần mình, đòi thêm chén nữa. Chè bắp của bố và hai chị em nấu với đường. Chè bắp mẹ và bà ăn, nấu bằng muối, mặn chát. Vậy mà lúc nãy mẹ vừa ăn chè vừa khen ngon rối rít. Cuộc đời của chị em chúng tôi mở sang trang mới: những tháng ngày có bố.

Cùng Tác Giả: Vân Trình

Bố và tôi (4)

Vân Trình (14/09/2025)

VI/ Cú đấm và bài học về sự tha thứ Năm đó có triển lãm ở ngay khu Hòa Bình mừng bảy năm “giải phóng” Đà Lạt. Cả trường xếp hàng rồng rắn đi xem. Họ trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật trong và sau cuộc chiến. Có một tấm hình…

Bố và tôi (3)

Vân Trình (14/09/2025)

IV/Khát vọng tự do Tôi có nhỏ bạn tên Bích Thuận. Nó có mái tóc dài thướt tha. Ngày đó bọn con gái Đà Lạt chúng tôi, đứa nào cũng cắt tóc ngang trước trán, nhỏ Thuận tóc dài rẽ ngôi giữa, hai tai lúc nào cũng đeo đôi bông,…

Bố và tôi (2)

Vân Trình (14/09/2025)

III/Thời thơ ấu thần tiên Sau gần một năm quản chế tại địa phương bố tôi được “khuyến khích” đi kinh tế mới: Lạc Dương hay Prenn. Lo Lạc Dương không có đầy đủ trường lớp, bố mẹ tôi quyết định ở lại Đà Lạt, mẹ dạy học ở trường Trại Mát. Bố…

Bài Ngẫu Nhiên

Chính phủ tốt nhất là chính phủ không cai trị ai cả

Nguyễn Minh Thanh (18/09/2020)

“Nhà nước chưa thể trở thành tự do và khai sáng thật sự chừng nào nó chưa công nhận công dân là những chủ thể độc lập với nhà nước và cao hơn nhà nước; quyền lực và sức mạnh của nhà nước là từ nhân dân mà ra và…

Để không phải hối hận năm 30 tuổi khi nhìn lại sự nghiệp

Ngô Quỳnh Hương (22/09/2020)

Lại một mùa thi cử tuyển sinh sắp đi qua. Lại một thế hệ chuẩn bị ngồi vào ghế giảng đường tiếp tục mài đũng quần bốn năm sau 12 năm đằng đẵng. Mình là người luôn có nhiều suy nghĩ về rất nhiều thứ, nhưng không phải lúc nào…

Những con người thuộc hạng “siêu nhân”!

Nguyễn Cao Minh (29/07/2020)

Bạn nằm trong ngôi nhà có bốn bức tường, không thể ra khỏi nhà đến quán bia gặp mấy người bạn thân, cũng chẳng thể chạy về quê nhà với ba mẹ đang chờ. Suốt những ngày “giãn cách xã hội” hay tự cách ly, lần đầu tiên ta nhận…

Người giàu Trung Quốc và “giấc mơ Mỹ”

TheNewViet (14/06/2023)

Việc dân Trung Quốc xoay sở mọi cách có thể để vào Mỹ sinh con (và đương nhiên đứa bé được nhập tịch Mỹ) chẳng là chuyện lạ nhưng hiện tượng này đến nay vẫn âm ỉ diễn ra… Bài báo NPR ngày 22 Tháng Mười 2022 cho biết, một…

Tự do trong giáo dục

Mạnh Kim (16/08/2020)

Năm 1899, nhà giáo dục Mỹ William T. Harris than phiền rằng hệ thống giáo dục Mỹ đã phát triển một “cỗ máy” mà học trò chỉ biết ngồi nghe. Giáo dục là vậy sao? Giáo dục là giúp định hình nhân cách thông qua cung cấp kiến thức và…

Dương Thiệu Tước và “Ngọc lan”

Huỳnh Duy Lộc (04/11/2020)

Kỷ niệm 25 năm ngày mất của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1995-2020) Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915 ở làng Vân Đình tỉnh Hà Đông, là cháu nội nhà thơ Dương Khuê và gọi nhà thơ, nhà giáo Dương Lâm là ông chú. Nữ ca…