Năm năm sau bài báo tôi viết về Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Nguyễn Từ Huấn đăng trên VOA, tôi gặp lại ông vào một ngày Tháng Chín, 2024. Tướng Nguyễn Từ Huấn vẫn vậy, với sự khiêm nhượng vốn dĩ khi ông nói về những gì đang làm kể từ ngày nghỉ hưu năm 2022. Cuộc trò chuyện vẫn xoay quanh về sự nặng nợ của ông với hai chữ Việt Nam…
Nhắc lại Tướng Huấn
Bài báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman cách đây 50 năm, đề ngày 20 Tháng Năm, 1975, với hình cậu thiếu niên Nguyễn Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà binh. Con đường binh nghiệp đã giúp ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên trở thành Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ…
Năm 1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác sau ngày 30 Tháng Tư 1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại học Oklahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các bằng thạc sĩ tại ba đại học: Đại học Southern Methodist, Đại học Purdue và Đại học Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên chiến đấu cơ.
Năm 1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn đăng ký vào quân ngũ. Năm 1993, ông trở thành sĩ quan Hải quân trừ bị. Trong thời gian này, ông làm việc thêm ở Bộ Năng lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt chuyên nghiên cứu kỹ thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ Bộ Năng lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng…
Năm 1993, internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website. Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn được mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải quân. Tiếng nói của anh Thiếu úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network warfare”.
Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm Thiếu tá Huấn được đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6 Tháng Hai, 2006.

Một trong những bằng sáng chế của ông Nguyễn Từ Huấn (ảnh: Ông Nguyễn Từ Huấn cung cấp)
“Cách đây 44 năm, tôi là một trong những người tỵ nạn, lòng lo lắng cho một tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây. Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng… Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày 30 Tháng Tư, 2019 đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial).
1968
Không muốn trở thành tâm điểm truyền thông, ông Nguyễn Từ Huấn gần như luôn tránh tiếp xúc báo chí, bởi đơn giản ông không bao giờ có thể nén được cảm xúc khi nhắc lại sự kiện kinh khủng trong đó bố mẹ và năm anh em mình bị thảm sát năm 1968. Ông có thể vượt qua tất cả thử thách để trở thành một người như hôm nay nhưng ký ức kinh hoàng của ngày mà ông chứng kiến tất cả khi mới 10 tuổi thì thật không dễ đối mặt. Trong mọi nỗ lực lớn nhất trong cuộc đời, cuộc đối diện trước ống kính truyền thông để nhắc lại sự kiện 1968 có lẽ là cố gắng kinh khủng nhất của ông.
Câu chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh điều đó vì câu chuyện đã trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên cường của bố và mẹ ông trước họng súng toán đặc công.
Ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến. Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út mà mẹ bế trên tay, khi họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên – quốc gia và cộng sản – đã thỏa thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng không thể quên cảnh toán đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi thể mà chúng vừa thảm sát man rợ.
Có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ chín tuổi duy nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một vết đạn, từ màn thảm sát trước đó chỉ vài phút, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó là lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã không chết.
Là một người Việt
Vài giờ của thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu thân 1968 đã trở thành cơn ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã và đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn nghèo khó, ông Huấn đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn. Nước mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn đến giờ vẫn còn nằm sâu trong đầu. Ông tự nhủ phải trả cho được “món nợ” lương tri, cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành.
Ông Huấn có một sứ mạng trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông chọn binh nghiệp, vì quân đội mới là hình ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tỵ nạn như ông, một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền. Tuy nhiên, “món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ lớn nhất đối với ông Huấn.
Có một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân, để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình.

So với thái độ và cung cách hợm hĩnh quen thuộc của tướng lĩnh quân đội cộng sản Bắc Việt, ông Huấn có một sự tương phản dữ dội. Ông không hề bày tỏ hận thù, dù yếu tố hung ác của bản thân sự kiện là đủ kinh khủng để có thể khiến gần như bất kỳ ai khác phải nhắc đến với một thái độ khác. Ông nói đến sự kiện như một câu chuyện mà bản thân nó đã thành một phần của bi kịch cuộc chiến. Con người ông, gặp bên ngoài, rất nhẹ nhàng và lịch sự, đến độ có thể khiến người ta nghĩ rằng môi trường làm việc của ông phải là giảng đường đại học chứ không phải “quân trường” nơi ông là một vị tướng chỉ huy. Điều gì đã giúp ông Huấn trở thành con người tài năng và khiêm nhượng như vậy? Chắc chắn là sự giáo dục.
Ông đã được gia đình người chú ruột cưu mang, dạy dỗ và thương yêu như con ruột. Ông được nuôi dưỡng trong một môi trường mà tình thương không chỉ là bàn tay thương yêu mà còn với ánh mắt nghiêm khắc. Có lẽ cũng từ sự giáo dục tốt (trong một gia đình gốc Bắc di cư 1954) mà ông Huấn không bao giờ quên mình là người Việt. Trò chuyện với ông, ông luôn nhắc về quê hương.
Khi được hỏi tại sao trưởng thành và sống trong môi trường văn hóa Mỹ nhưng ông vẫn nói và viết tiếng Việt như chưa từng rời khỏi Việt Nam, ông nói rằng Việt Nam mãi mãi là cội nguồn của ông. Ông đến giờ vẫn luôn xúc động đến mức có thể khóc khi nghe một ca khúc quê hương của Phạm Duy. Ông vẫn đọc sách tiếng Việt và vẫn nhắc con cái mình không được phép quên hai chữ Việt Nam.
“Món nợ mới” của Tướng hưu Nguyễn Từ Huấn: Vẫn là hai chữ Việt Nam
Trong lần gặp ông Huấn vào Tháng Chín, 2024, tôi nhắc lại câu hỏi mà tôi từng ghi lại trong bài viết đăng trên VOA năm 2019, rằng, sau gần 30 năm cống hiến cho quân đội và hai năm sau khi nghỉ hưu, ông thấy mình đã “trả hết nợ” chưa. Ông Huấn nói ngay: “Chưa!” Ông không thể nghỉ ngơi khi nghĩ đến đồng đội của cha ông, những người đã nằm xuống để bảo vệ tự do và dân chủ cho miền Nam Việt Nam, những người khoác áo lính VNCH.
Cùng với ông Nguyễn Đạc Thành, cựu Thiếu tá VNCH (hiện 84 tuổi, ở Houston, Texas), ông Huấn đang dốc tâm sức cho việc tìm kiếm hài cốt binh sĩ VNCH và vận động chiến dịch trùng tu Nghĩa trang Quân đội VNCH (hiện được gọi là Nghĩa trang Bình An, ở Dĩ An, Bình Dương). Gần 20 năm kể từ lần đầu tiên (2007) trở về Việt Nam tìm mộ tù cải tạo, hài cốt chiến sĩ VNCH, và xin phép trùng tu Nghĩa trang Quân đội VNCH, ông Nguyễn Đạc Thành vẫn gặp một số khó khăn để thực hiện kế hoạch chỉnh trang toàn bộ và đồng bộ (chứ không phải tự do trùng tu theo cách riêng của từng cá nhân như nhiều năm nay).

Ông Nguyễn Từ Huấn và ông Nguyễn Đạc Thành (ảnh: MK)
Trong cuộc phỏng vấn Đài SBTN năm 2022, ông Nguyễn Đạc Thành cho biết tổ chức VAF (Vietnamese American Foundation) của ông đã trùng tu 147 ngôi mộ cuối cùng của lô E51. Công việc tiếp theo là lô C5. Phần lô D, hiện còn trống, VAF dự tính dựng mộ cho hài cốt những người tù cải tạo và những người lính VNCH mất tích trong chiến tranh…
Phần mình, ông Huấn đã thực hiện được một số việc. Trong chuyến đi Brisbane (Queensland, Úc) vào Tháng Chín, 2024, ông Huấn đã nói chuyện với cộng đồng người Việt cũng như gặp Chủ tịch Hạ viện Úc Milton Dick và được ông Milton Dick bày tỏ ủng hộ – tương tự sự ủng hộ mà ông Huấn nhận được từ cựu Đại sứ Ted Osius lẫn ông Marc Knapper, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Sau Úc, ông Huấn dự tính đi Canada, Pháp, Đức, Anh…, với cùng một sứ mạng.
Cuộc gặp của tôi với ông Huấn vào một ngày Tháng Chín, 2024 kết thúc vào một buổi chiều. Ở Việt Nam là rạng sáng. Một ngày mới đang bắt đầu. Tại Nghĩa trang Biên Hòa, tên gọi quen thuộc của Nghĩa trang Quân đội VNCH, những tia nắng đầu tiên xuất hiện, sưởi ấm linh hồn những người đã khuất, những đồng đội của cha ông Huấn, những người cần được thắp nhang tử tế như tất cả những người sinh ra trên đất Việt Nam và chết trên quê hương Việt Nam…
________
Cả ba ông Nguyễn Từ Huấn, ông Lương Xuân Việt (được thăng thiếu tướng năm 2017; nghỉ hưu 2021) và ông Châu Lập Thể (được thăng thiếu tướng năm 2019; nghỉ hưu 2024) đều có ba điểm chung: Sinh trong gia đình sĩ quan VNCH; có ý chí tiến thân mãnh liệt bằng con đường học vấn miệt mài; và đều muốn thể hiện sự tri ân đất nước đã cưu mang các ông bằng cách gia nhập quân đội, ở một quốc gia mà chẳng ai bóp chết cuộc đời các ông chỉ bởi lý lịch gia đình cùng một “bản án” không xét xử với “tội danh” con của “ngụy”.
Không nơi nào trong bất kỳ môi trường nào trên thế giới khắc nghiệt bằng quân đội Mỹ. Để được “gắn sao” cũng khó như “lên trời hái sao”. Ông Huấn cho biết, chỉ khoảng 3% đại tá được thăng chức tướng trong các binh chủng nói chung và tỷ lệ này trong hải quân thậm chí thấp hơn, với vỏn vẹn 1%! “Ứng cử viên” được đề cử phải được điểm trung bình cao từ phiếu “chấm điểm” của các vị tướng khác, với những tiêu chuẩn cực kỳ nghiêm nhặt, từ tinh thần kỷ luật cho đến trách nhiệm và thành tích đạt được. Ứng viên sau đó được một ủy ban độc lập thuộc quân đội xem xét lại quá trình cống hiến trong binh nghiệp, kể cả việc điều tra xem người đề bạt và người được đề cử có bất kỳ ràng buộc cá nhân hoặc quan hệ riêng tư nào dẫn đến thiên vị hay không.
Sau khi trải qua loạt thủ tục minh bạch nhân thân, quân đội đưa hồ sơ lên Ủy ban quân vụ Thượng viện để được xét chuẩn thuận. Quốc hội Mỹ rất khắt khe trong việc phong tướng. Tổng thống không hề có quyền hạn trong việc bổ nhiệm tướng. Quân đội cũng không bao giờ có thể “thuyết phục” Quốc hội phong tướng ào ạt cả. Tướng Huấn cho tôi biết: Không chỉ thành tích cá nhân từ chiến trường và kinh nghiệm, người đáng được gọi là tướng chỉ huy còn phải có một phẩm chất quan trọng: Biết nâng đỡ “đàn em”, huấn luyện và hướng dẫn thuộc cấp hoàn thành nhiệm vụ, để giúp họ có thể trở thành những sĩ quan chỉ huy xứng đáng trong tương lai. Đây là một trong những phẩm chất đạo đức của cấp chỉ huy mà quân đội Mỹ luôn đề cao. Tất cả họ đều phải nỗ lực rất dữ dội và bền bỉ để vượt trội và vượt xa nhiều người khác trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt không có chỗ cho kẻ bất tài tiến thân bằng quan hệ hoặc mánh khóe.
@theNewViet