Khi bản thân giải Nobel Hòa bình không tạo ra “hòa bình”
Trong một thế giới dù bớt xung đột vũ trang và không khí không đặc quánh mùi thuốc súng, việc chọn một nhân vật để trao Nobel Hòa bình không dễ dàng. Ủy ban Nobel Hòa bình, năm nay, cuối cùng quyết định trao giải này cho Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc (WFP). Sự chọn lựa an toàn cho Nobel Hòa bình 2020 không dẫn đến tranh cãi nhưng việc trao giải cho một tổ chức mà người ta có thể trao “Nobel Hòa bình” vào… bất kỳ năm nào như WFP cũng cùng lúc cho thấy Nobel Hòa bình ngày càng kém hấp dẫn và mất dần ý nghĩa ban đầu…
Lịch sử một giải… không có “hòa bình”
Nhiều người cho rằng bản thân việc chấm giải Nobel Hòa bình đã có vấn đề. Giải Nobel Hòa bình được chọn bởi ủy ban năm thành viên do Hội đồng lập pháp Na Uy (Norwegian Storting) lựa ra, trong khi bốn giải còn lại (hóa học, vật lý, y học, văn chương) được chấm ở Thụy Điển (quê hương người sáng lập giải Alfred Nobel) bởi các viện nghiên cứu Thụy Điển. Tại sao Nobel Hòa bình chấm ở Na Uy? Alfred Nobel không nói rõ điều này.
Ngay từ đầu, Ủy ban Nobel Hòa bình (Peace Prize Committee – PPC) đã có mối quan hệ gần gũi với nền chính trị Na Uy. Jorgen Lovland – chủ tịch PPC từ 1901 đến 1922 – là ngoại trưởng (1905-1907) và thủ tướng Na Uy (1907-1908). Từ năm 1937, Hội đồng lập pháp Na Uy quyết định rằng thành viên PPC phải là người không nắm bất kỳ cương vị chính phủ nào trong cùng thời gian. Năm 1973, khi giải Nobel Hòa bình trao cùng lúc cho ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, tranh cãi nổ ra khiến người ta qui định ngầm thêm rằng không thành viên Hội đồng lập pháp Na Uy nào được có mặt trong PPC, để nhấn mạnh tính độc lập của PCC. Tuy nhiên, thành viên PPC gần như luôn là các chính trị gia nổi tiếng. Một yếu tố gây tranh cãi liên quan Nobel Hòa bình nữa là sự đi xa dần ý nghĩa nguyên thủy mà Alfred Nobel viết trong di chúc, trong đó ông nói Nobel Hòa bình là giải được trao cho “thành tựu lớn nhất nhân loại (đạt được) trong năm trước”.
Alfred Nobel nhấn mạnh rằng Nobel Hòa bình trao cho những ai “làm tốt nhất trong việc kết nối tình anh em giữa các quốc gia, nỗ lực xóa bỏ hay giảm thiểu quân đội thường trực và cố gắng duy trì cũng như tăng cường tiến trình hòa bình”. Theo đó, lịch sử Nobel Hòa bình dường như không đi xa chủ trương ban đầu của Alfred Nobel. Những tập trung chính của Nobel hòa bình là công tác nhân đạo; thực hiện các phong trào hòa bình; đàm phán hòa bình; tiến hành chính sách hòa giải; và tranh đấu nhân quyền. Giải Nobel hòa bình đầu tiên 1901 được trao cho người sáng lập tổ chức Hội chữ thập đỏ Jean Henri Dunant (Thụy Sĩ) và nhà hoạt động chính trị Pháp Frédéric Passy nhờ các nỗ lực đóng góp hòa bình và công trạng sáng lập Liên minh nghị viện quốc tế.
Nobel Hòa bình về nhân quyền là đề tài gây tranh cãi dữ dội nhất vì trong nhiều trường hợp, nó tạo ra mâu thuẫn hơn là mang lại hòa bình. Bản thân Alfred Nobel không xét đến vấn đề nhân quyền khi viết di chúc (về việc thành lập giải Nobel) hồi năm 1895 và PPC ban đầu cũng chỉ nhấn mạnh công tác nhân đạo chứ không phải nỗ lực hướng đến nhân quyền. Trong thực tế, khái niệm nhân quyền chỉ nổi cộm từ sau Thế chiến thứ hai, khi các nước phương Tây tôn vinh hệ thống chính trị dân chủ và các yếu tố liên quan quyền tự do con người bắt đầu được xem trọng.
Hơn nữa, vấn đề nhân quyền còn được củng cố trong Bản tuyên ngôn nhân quyền LHQ năm 1948, góp phần đưa đến sự khai sinh các nhóm hoạt động nhân quyền… Ngoài ra, vấn đề không đơn giản, khi bản thân chữ “hòa bình” có thể diễn dịch theo nghĩa rộng. “Chiến tranh được tiến hành để hòa bình có thể được thiết lập” – đó là một trong những định nghĩa về “hòa bình” từng gây nhiều phản ứng trái ngược. Cách đây hơn 200 năm, triết gia Đức Immanuel Kant trong tiểu luận lừng danh Zum ewigen Frieden đã nói rằng một cuộc chiến hủy diệt sẽ “mở rộng đường cho nền hòa bình vĩnh cửu trong nghĩa địa của nhân loại”.
Hòa bình là gì?
Hòa bình là sự vắng mặt của chiến tranh – theo cách hiểu thông thường nhất – nhưng hòa bình có thể nào đến mà không cần chiến tranh? Lịch sử nhân loại là lịch sử của xung đột và hòa bình thường tồn tại như một khái niệm mà người ta mơ ước nhiều hơn là cái mà người ta được thụ hưởng. Nói khác đi, khái niệm hòa bình là khái niệm đạo đức và lý do khiến người ta chống chiến tranh cũng xuất phát từ phạm trù đạo đức này. Có lẽ những người chấm giải Nobel Hòa bình cũng làm việc theo kim chỉ nam đạo đức mang tính lý thuyết, hơn là xét đến tính chất thực tế phức tạp của các sự kiện và nhân vật mà họ đang cân nhắc quyết định trao giải Nobel Hòa bình, từ đó dẫn đến lệch lạc và không chuẩn xác mà lịch sử hơn 100 năm của Nobel hòa bình từng chứng minh. Một sự thật rõ ràng rằng không ít người tìm cách đem lại hòa bình hay tiến trình hòa bình đều từng chịu trách nhiệm lớn trước đó cho việc tạo ra chiến tranh. Henry Kissinger (1973) là một ví dụ.
Nhiều câu hỏi đặt ra cho PPC trong suốt gần 120 năm qua nhưng dường như không bao giờ có lời giải. Thứ nhất, một ủy ban được chỉ định bởi Hội đồng lập pháp Na Uy mà thành viên thông thường là các cựu chính trị gia Na Uy liệu có hoàn toàn độc lập trong hành xử? Người ta dễ có khuynh hướng cho rằng quan hệ ngoại giao cùng các lợi ích quốc gia sẽ ảnh hưởng và chi phối quyết định chọn lựa của PPC. Thứ hai, việc “chấm điểm” của PPC dựa trên cơ sở nào, trong khi bối cảnh chính trị thế giới mỗi năm mỗi thay đổi và cán cân quyền lực trên bàn cờ chính trường thế giới cũng không ổn định? Còn nữa, liệu một ủy ban gồm vài thành viên ở một nước Tây Âu nhỏ bé như Na Uy có đủ khả năng thật sự và quyền hạn để đánh giá một người nào đó – trên phạm vi toàn thế giới – có nỗ lực đáng kể nhất cho hòa bình nhân loại?
Chưa hết, liệu quyết định của họ có bị sức ép nào từ bên ngoài hay đơn giản hơn không bị ảnh hưởng bởi vấn đề sắc tộc hay thành kiến tư tưởng? Việc một vĩ nhân như Mahatma Gandhi – từng được đề cử 5 lần (1937, 1938, 1939, 1947 và 1948 – vài ngày trước khi ông bị ám sát vào tháng 1-1948) mà không bao giờ được PCC để ý – có minh chứng điều gì cho câu hỏi này? Năm 1973, những câu hỏi trên một lần nữa đã dồn lên PPC khi họ chấm giải Nobel Hòa bình cho Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger và trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Lê Đức Thọ. Hai thành viên PPC đã từ chức sau khi bỏ phiếu phản đối việc chấm giải. Người ta đưa ra ba đề nghị: ba thành viên còn lại của PPC phải được thay; PPC phải được quốc tế hóa (với mỗi thành viên thuộc một quốc gia Nordic – Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uy và Thụy Điển); và các nghị sĩ Na Uy không được phép có mặt trong PPC.
Hòa bình và tự do trong hòa bình
Cả ba yêu cầu đều bị đa số Hội đồng lập pháp Na Uy khước từ nhưng sau đó người ta ngầm thỏa thuận rằng thành viên PPC từ đó về sau phải là người không là nghị sĩ. Năm 1977, thái độ tự nhìn lại trên đã thể hiện ở việc đổi tên thành “Ủy ban Nobel Na Uy” (tên chính thức của PCC) thay vì “Ủy ban Nobel của Hội đồng lập pháp Na Uy”. Tuy nhiên, việc quốc tế hóa PPC không phải đơn giản: dựa vào yếu tố cơ bản nào để có thể chọn thành viên PPC và rồi một ủy ban thành viên đa quốc gia liệu có đơn giản hóa hay lại làm phức tạp thêm, vì lúc đó từng thành viên đều đứng trước ảnh hưởng của lợi ích riêng dân tộc?
Vấn đề trên đến nay tiếp tục bỏ lửng trong khi thế giới diễn biến mỗi lúc mỗi phức tạp, đến mức có ý kiến còn nhấn mạnh đến việc cần mở rộng khái niệm “hòa bình” khi xét đến việc chấm giải Nobel Hòa bình. Những người đấu tranh để đòi hỏi được sống trong một nền dân chủ và tự do trong hòa bình có đáng để được công nhận và ghi nhận bằng một Nobel Hòa bình không, chẳng hạn trường hợp giới trẻ Hong Kong mạnh mẽ đứng lên trước sự đàn áp khốc liệt và đẫm máu của Trung Quốc? Dĩ nhiên việc trao Nobel Hòa bình cho một tổ chức có vai trò hỗ trợ cứu đói cho gần 100 triệu người tại 88 quốc gia như Chương trình Lương thực Thế giới là không sai nhưng trong một thế giới mà sự “đói khát” tự do và dân chủ tại vô số nơi trên thế giới cũng quan trọng không kém sự thiếu thốn lương thực thì liệu ý nghĩa của “hòa bình” có cần được mở rộng như là một sự tôn vinh hành động dũng cảm đấu tranh cho mục tiêu hòa bình và tự do?
Bài đã đăng trên Saigon Nhỏ